Phật Lịch 2554

2010

 

 

 

NGHI THỨC

TỤNG NIỆM

 

 

 

 

 

Chùa Pháp Nguyên

Xuất Bản

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

 

 

Chùa Pháp Nguyên 

1838 County Road 129,

Pearland, Texas 77581-6239 (USA)

Điện thoại: 281-992-2921

Email: [email protected] 

Website: www.chuaphapnguyen.org

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

    Nghi lễ Phật Giáo Việt Nam đă có hơn hai ngàn năm lịch sử, trong đó sự trưởng thành đă đạt tới mức độ cao nhất.  Ngoài tư cách là phương tiện để thực hành sự tu tập, hướng dẫn đại chúng chuyển tâm tịnh niệm; nghi lễ c̣n là những áng văn thơ tuyệt tác mang dấu ấn của các thời đại và các t́nh huống. Các bài tán tụng mang những nội dung sâu sắc của triết lư Phật Giáo, cũng là những bài ca với những âm điệu thanh thoát. Những nghi thức này dùng các thể văn thơ Hán Nôm để h́nh thành với sự tao nhă điêu luyện tột cùng.

 

    Ngày nay, số người hiểu đuợc Hán Nôm quá ít, do đó đại chúng khó có thể thưởng thức những áng văn chương tuyệt tác này.  Ư thức đuợc những khó khăn trên, từ lâu nay chư tôn đức đă cố gắng dịch những nghi thức này sang Việt ngữ.  Tuy nhiên sự dịch thuật vẫn chưa trọn vẹn, v́ khi đạt được nghĩa th́ âm vận, nhạc điệu không giữ được.  Do đó các nghi thức đều dùng xen kẻ các bài kinh tán tụng Hán và Việt.

                  

    Bây giờ v́ nhu cầu Phật sự cấp thiết cần có những nghi lễ hoàn toàn bằng Việt ngữ để các thế hệ thanh thiếu niên có thể thông hiểu và hành tŕ một cách tốt đẹp, chúng tôi mạo muội chuyển ngữ các nghi thức thường dùng ở chùa sang tiếng Việt.  V́ khả năng có giới hạn, không đủ văn tài để chuyển ngữ các bài tán tụng thi kệ sang tiếng Việt với tất cả các âm vần nhạc điệu của nguyên tác, chúng tôi chỉ cố gắng chuyển dịch ư nghĩa mà thôi.  Trong khi soạn thảo, chúng tôi có tham khảo những nghi thức

 

tụng niệm, những bài văn đă được quư ḥa thượng Thích Trí Quang, Thích Trí Tịnh, Thích Huyền Quang, Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Thanh.. đă chuyển dịch sang tiếng Việt.

 

    Về các thần chú trong các nghi thức, chúng tôi giữ nguyên không dịch và không chuyển âm sang tiếng bắc Phạn Sanscrit.  V́ chúng tôi nghĩ rằng thần chú là danh hiệu của các vị Phật và Bồ Tát, do đó không cần dịch.  Phật tử Việt Nam đă hành tŕ quen thuộc các thần chú này theo cách phiên âm Hán Việt, nếu bây giờ đổi qua cách đọc bằng tiếng Phạn th́ sẽ gây trở ngại cho việc hành tŕ.  Chúng tôi quan niệm sự cảm ứng do tâm thành chứ không do cách phát âm.  Hơn nữa thần chú hành tŕ theo Mật Tông trong đó cần vượt qua ngôn ngữ để có thể cảm ứng trực tiếp không qua một trung gian nào giữa người hành tŕ và đối tượng hành tŕ. 

 

    Nghi Thức Tụng Niệm này được soạn thảo trong thời gian cấp bách, do đó không tránh được những sơ sót.  Mong chư vị thiện tri thức từ bi chỉ giáo để những lần in sau được hoàn măn hơn.

 

    Chúng tôi vô cùng tán thán công đức vô lượng của đạo hữu Hoằng Phương đă bỏ công sức và thời giờ để đánh máy bản thảo và hoàn thành trong thời gian ngắn. Chúng tôi cũng hết sức tán thán công đức quư Phật tử đă phát tâm ấn tống cuốn nghi thức này. 

 

    Nguyện cầu Tam Bảo gia hộ cho quư Phật tử thân tâm thường lạc, đạo tâm kiên cố.  Nguyện hồi hướng

 

công đức này cho ánh sáng Phật Pháp soi chiếu muôn nơi, công cuộc hoằng dương chánh pháp thành công tốt đẹp. Đồng nguyện thế giới ḥa b́nh, chúng sanh an lạc.

 

Chùa Pháp Nguyên, Pearland, Texas, Hoa Kỳ

Ngày đầu thu năm Canh Dần (2010)

 

 

Sa Môn Thích Trí Hoằng    

 

 

 

Mục Lục

 

48 Nguyện của Phật A Di Đà

Các Bài Sám Nguyện

Các Lời Tác Bạch

Cầu An

Cầu Siêu

Công Phu Khuya

Cúng Linh

Cúng Quá Đường

Cúng Thí Thực

 

Khóa Lễ Tịnh Độ

Kinh Vu Lan Bồn

 

Nghi Thức Khánh Đản

Nghi Thức Lễ Phật

Nghi Thức Vu Lan

Những Điều Cần Biết

Pháp Môn Lễ Phật

Phụ Lục

Sám Hối Hồng Danh

 

 

NGHI THỨC

KHÓA LỄ TỊNH ĐỘ

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

- Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:

   Án lam tóa ha. (3 lần)

- Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

   Án ta phạ, bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

 

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

(Thắp hương niệm bài cúng hương)

Nguyện đem ḷng thành kính,

Gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương,

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời sống đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm bồ đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác. (c)

(Cắm hương lên lư)

 

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng,

Ba cơi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài,

Quy y tṛn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. (c)

 

QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (c)

 

ĐẢNH LỄ

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ
 

pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

*

(Khai chuông mơ)

CHÚ ĐẠI BI

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.

                                             (3 lần) (c)

    Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

    Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da.  Nam mô A lị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.  Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả.  Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a lị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

    Nam mô na ra cẩn tŕ hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.  Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng,
 

câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.  Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn tŕ, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha.  Tất đà dạ ta bà ha.  Ma ha tất đà dạ ta bà ha.  Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ, ta bà ha.  Ma ra na ra ta bà ha, tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha.  Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.  Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.  Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ, ta bà ha.  Ma bà rị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. 

    Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da.  Nam mô a lỵ gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. 

    Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà giạ, ta bà ha. (3 lần) (c)

 

KHAI KINH

Pháp Phật cao siêu mầu nhiệm,

Cơ duyên may được thọ tŕ,

Xin nguyện đi vào biển Tuệ,

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (c)

 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                     (3 lần) (c)                                                              

Nam mô Liên Tŕ Hải Hội Phật Bồ Tát.

                                                     (3 lần) (c)

*  

                           

KINH A DI ĐÀ

 

    Đây là những điều tôi đă được nghe Phật nói vào một thời Người c̣n cư trú ở tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây của Thái Tử Kỳ Đà.  Hồi đó cùng ở bên Phật có một ngàn hai trăm năm mươi vị khất sĩ, trong đó có những vị A La Hán đệ tử lớn của Phật mà ai cũng biết như các Thầy Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đa Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lư Đà Di, Kiếp Tân Na, Bạt Câu La và A Nậu Lâu Đà.  Lại cũng có mặt các vị Bồ Tát đại nhân như Văn Thù, A Dật Đà, Càn Đà Ha Đề, Thuờng Tinh Tấn, và rất nhiều các Bồ Tát lớn như thế, cùng với chư Thiên như Đế Thích Đề Hoàn Nhân, nhiều đến vô lượng, đều cùng

có mặt.

 

     Lúc bấy giờ Phật gọi Thầy Xá Lợi Phất và bảo:  Từ đây đi qua phương Tây, cách khoảng mười vạn ức cơi Phật, có một thế giới gọi là
 

Cực Lạc, trong cơi ấy có một vị Phật tên là A Di Đà, hiện đang thuyết pháp. (c)

 

    Này Xá Lợi Phất, đất nước ấy v́ sao tên là Cực Lạc?  Bởi v́ dân chúng trong nước ấy không biết khổ là ǵ, chỉ hưởng thụ mọi thứ an lạc, cho nên cơi ấy được gọi là Cực Lạc.

 

    Này nữa, Xá Lợi Phất, ở nước Cực Lạc, có bảy lớp hàng cây, tất cả đều được làm bằng bốn thứ châu bảo, bao quanh giáp ṿng, v́ vậy cơi ấy được gọi là Cực Lạc.

 

    Này nữa, Xá Lợi Phất, ở nước Cực Lạc có rất nhiều hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám công đức, dưới đáy hồ toàn là cát vàng; bốn bên hồ có những lối đi làm bằng vàng, bạc, lưu ly và pha lê; phía trên các con đường ấy lại có vô số lâu đài, cũng đuợc xây dựng và trang trí bằng các chất liệu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mă năo.  Sen trong các hồ lớn như những chiếc bánh xe, sen xanh chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào quang vàng, sen đỏ chiếu hào quang đỏ, sen trắng chiếu hào quang trắng, hương sen tỏa ra vi diệu và tinh khiết.

   

    Xá Lợi Phất! Nước Cực Lạc được tô điểm bằng những cái đẹp như thế.

 

    Này nữa, Xá Lợi Phất! Ở nước Phật ấy, người ta thường được nghe nhạc từ hư không vọng xuống.  Đất được làm bằng vàng ṛng. Mỗi ngày sáu lần có mưa hoa mạn đà la rơi xuống.  Dân chúng nước ấy có thói quen buổi sáng lấy lẵng hứng đầy các bông hoa mầu nhiệm ấy để đem đi cúng dường các vị Phật đang cư trú ở vô số cơi Phật khác.  Đến giờ cơm trưa, mọi người đều về kịp nước ḿnh để ăn cơm rồi đi kinh hành.  Xá Lợi Phất, nước Cực Lạc đẹp tuyệt vời như thế đấy.

 

    Này nữa, Xá Lợi Phất!  Ở nước Cực Lạc kia, thường có nhiều loại chim đủ màu rất kỳ diệu như hạc trắng, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già và cọng mạng…  Những con chim ấy, sáu buổi mỗi ngày, thường hót lên những thanh âm ḥa nhă: trong giọng hót của chúng, người ta nghe được tiếng diễn xướng các pháp môn ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần…  Dân chúng ở trong nước nghe được những pháp âm như thế đều nhiếp tâm trở về thực tập niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng. (c)

 

    Xá Lợi Phất, thầy đừng tưởng các loại chim ấy đă được sinh ra trên căn bản nghiệp báo.  Tại sao?  Tại v́ ở nước Phật kia không có ba nẽo đường đen tối là địa ngục, ngạ quỷ và

 

súc sanh.  Xá Lợi Phất!  Ở nước ấy danh từ ác đạo mà c̣n không có, huống hồ là sự thực về ác đạo.  Những con chim kia đă được Phật A Di Đà biến hóa ra với mục đích là làm cho pháp âm được tuyên lưu rộng răi trong xứ của Người.

 

    Xá Lợi Phất, ở nước Phật ấy, mỗi khi có gió nhẹ xao động các hàng cây và các màn lưới châu báu th́ người ta được nghe những âm thanh vi diệu, giống như là có trăm ngàn nhạc khí cùng được tấu lên một lần.  Người dân nước ấy mỗi khi nghe các âm thanh kia th́ đều nhiếp tâm niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng.

 

    Xá Lợi Phất!  Thầy nghĩ sao?  Đức Phật kia tại sao có tên là A Di Đà?  Xá Lợi Phất!  Tại v́ Đức Phật ấy là ánh sáng vô lượng có thể chiếu soi được tất cả các cơi nước trong mười phương mà ánh sáng ấy không hề bị ngăn cách.  V́ vậy nên Ngài được gọi là A Di Đà.

 

    Hơn nữa, Xá Lợi Phất!  Thọ mạng của Đức Phật ấy cũng như dân chúng trong nước Ngài là thọ mạng vô lượng kéo dài tới vô lượng vô biên kiếp A Tăng Kỳ, v́ vậy cho nên danh hiệu của Ngài là A Di Đà.

 

 

    Xá Lợi Phất! Từ khi Phật A Di Đà thành đạo cho đến nay, tính ra là đă mười kiếp.  Này nữa, Xá Lợi Phất!  Số đệ tử Thanh văn đă đắc quả A La Hán của Đức Phật ấy nhiều vô lượng, không thể đếm được bằng toán học, số đệ tử Bồ Tát của Ngài cũng đông đảo như thế.

 

    Này Xá Lợi Phất!  Nước Phật kia đă được xây dựng bằng những công đức đẹp đẽ như thế.

 

    Này nữa, Xá Lợi Phất!  Tất cả những ai sinh về nước Cực Lạc đều có tư cách bất thối  chuyển, trong số ấy có nhiều vị đă là Bồ Tát nhất sinh bổ xứ.  Số lượng của các vị này đông đảo vô cùng, không thể dùng toán học mà kiểm đếm được, ta chỉ có thể dùng danh từ vô số A Tăng Kỳ để diễn tả mà thôi. (c)

 

    Xá Lợi Phất!  Chúng sinh mọi nơi khi nghe nói tới nước Cực Lạc đều nên phát nguyện sanh về nước ấy.  Tại sao?  Tại v́ sanh về nước ấy th́ sẽ được sống chung và gần gũi với rất nhiều các bậc thiện nhân cao đức.

 

   Xá Lợi Phất!  Những kẻ thiếu phúc đức và căn lành th́ ít hy vọng được sinh về cơi ấy.  V́ vậy, Xá Lợi Phất!  Người con trai lành hay

 

người con gái lành nào muốn sinh về cơi ấy th́ khi nghe đến danh hiệu Phật A Di Đà phải nắm lấy danh hiệu ấy mà hết ḷng thực tập quán niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn, hoặc trong ṿng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày.  Người ấy, khi lâm chung, sẽ được thấy Phật A Di Đà và các vị thánh chúng nước ấy hiện ra trước mặt.  Trong giờ phút ấy, tâm ư người kia sẽ an trú trong định, không hề điên đảo và tán loạn, do đó người ấy được văng sanh ngay về nước Cực Lạc.

 

    Xá Lợi Phất!  V́ thấy được cái lợi ích lớn lao này cho nên tôi muốn nói với quư vị rằng những ai đang nghe tôi nói đây hăy nên phát nguyện sinh về nước ấy.

 

    Xá Lợi Phất!  Nếu trong giờ phút hiện tại tôi đang ca ngợi những lợi ích và công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Đà th́ tại phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Thượng và phương Hạ, các vị Phật đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của ḿnh, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các vị, bao trùm cả thế giới tam thiên đại thiên và thốt lên lời tuyên bố thành thật của ḿnh: “Này tất cả chúng sinh các cơi, các vị hăy nên tin

 

vào kinh này, kinh mà tất cả các Phật trong vũ trụ đều đem hết ḷng xưng tán và hộ niệm”.

 

    Xá Lợi Phất!  Thầy nghĩ sao?  Tại sao gọi kinh này là kinh mà tất cả các Phật đều đem hết ḷng xưng tán và hộ niệm? (c)

 

    Sở dĩ như thế, là v́ những người con trai hoặc con gái nhà lành nào nghe được kinh này và nghe được danh hiệu Phật A Di Đà, hết ḷng hành tŕ và thực tập theo phép niệm Phật th́ những vị ấy sẽ được tất cả các vị Phật hộ niệm, và tất cả sẽ đạt tới quả vị giác ngộ cao tột, không c̣n bị thối chuyển.  V́ vậy cho nên quư vị hăy tin vào lời tôi đang nói, và cũng là lời Chư Phật đang nói.

 

    Xá Lợi Phất!  Nếu có người đă, đang, hay sẽ phát nguyện sinh về nước Phật A Di Đà, th́ người ấy ngay trong giờ phát nguyện đă đạt được quả vị giác ngộ cao tột không thối chuyển và đă có mặt tại cơi nước ấy rồi, không kể đến sự kiện là người ấy đă sinh, đang sinh, hay sẽ sinh về đó.

 

    Xá Lợi Phất!  Thầy nên hiểu cho rằng cư trú trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt tới quả vị giác ngộ vô thượng và c̣n

 

diễn giải được cho mọi giới những pháp môn rất khó tin như pháp môn này, đó là một việc làm quả là cực kỳ khó khăn.

 

    Nghe Phật nói kinh này, Thầy Xá Lợi Phất, tất cả các vị khất sĩ, và mọi giới Thiên, Nhân, A Tu La, v.v. ai cũng phát ḷng tin tưởng, tiếp nhận, làm lễ Phật và lui về trú sở của ḿnh.                                                                       

                                                (ccc)

*

 

 KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh,

 

hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử. Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

VĂNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN:

    Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.  A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam


 

 

bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) (c)

 

PHÁT NGUYỆN

Sông ái dài muôn dặm

Biển mê sóng vạn tầm

Cơi luân hồi muốn thoát

Niệm Phật hăy nhất tâm. (c)

Tịnh Độ từ chân tâm

Di Đà nơi tự tánh

Chiếu sáng khắp mười phương

Trong tất cả ba đời

Vẫn không rời hiện cảnh

Con nay xin hướng về

Đức Phật A Di Đà

Giáo chủ cơi Tịnh Độ

Nguồn ánh sáng vô lượng

Gốc thọ mạng vô cùng

Một ḷng xin quán tưởng

Và tŕ niệm hồng danh. (c)

 

Nam mô A Di Đà Phật. (10 lần hay nhiều hơn) (c)

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)(c)

Nam mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần) (c)

Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

                                                              (3 lần) (c)     

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

                                                              (3 lần) (c)


 

 

PHÁT NGUYỆN

Nương tựa A Di Đà

Nơi chân tâm mầu nhiệm

Con dốc ḷng quay về

Duy tŕ nguồn chánh niệm

Con đă nguyền trở lại

Nương tựa A Di Đà

Cúi xin Phật nhiếp thọ

Cơi Tịnh Độ bày ra

Xin lấy đuốc ánh sáng

Soi vào tâm tư con

Xin lấy thuyền thọ mạng

Chuyên chở h́nh hài con

Cho sự sống an lạc

Cho lư tưởng vẹn toàn

Xin Phật luôn bảo hộ

Để tâm không buông lơi

Cho con phá tà kiến

Làm phiền năo rụng rơi

Trong giây phút hiện tại

Có Phật trong cuộc đời

Tịnh Độ đi từng bước

Vững chăi và thảnh thơi

Hiện tại sống chánh niệm

Tịnh Độ đă thật rồi

Sau này đổi thân khác

Thế nào cũng an vui

Niệm Phật A Di Đà


 

 

Được nhất tâm bất loạn

Chín phẩm sen hiện tiền

Tự tha đều thọ dụng

Biết trước giờ mạng chung

Tâm con không nao núng

Thân con không bệnh khổ

Ư con không ngại ngùng.

Di Đà cùng thánh chúng

Tay nâng đóa sen vàng

Có mặt trong giây lát

Cùng lên đường thong dong

Sen nở là thấy Phật

Tịnh Độ là quê hương

Cúi xin Phật chứng giám

Hành tŕ không buông lung. (c)

 

TÁN LỄ TÂY PHƯƠNG

Kính lạy Phương Tây

Cơi Tịnh vui thay

Hoa sen chín phẩm thơm lây

Châu báu hàng cây

Trời thường trỗi nhạc vang dầy.

A Di Đà Phật

Phóng hào quang lớn!

Cứu độ chúng sanh vô lượng

Điềm lành thay!

Hiện tiền đại chúng ca dương

Nguyện sanh an dưỡng


 

 

Hiện tiền đại chúng ca dương

Đồng sanh an dưỡng. (c)

 

KỆ KHUYẾN ĐẠI CHÚNG

Ngày đă dần qua

Mạng sống giảm dần

Như cá thiếu nước

Làm sao an vui

Đại chúng phải nên tinh tấn

Như cứu lửa cháy đầu

Nghĩ đến vô thường

Đừng nên buông thả! (cc)

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng. (c)

                                                        (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Tŕ tụng kinh thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (c)


 

 

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền năo xin nguyện đoạn

Quả Phật xin chứng nên. (c)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Phật và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (c)

Nguyện dứt hết phiền năo

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

 

*


 

 

NGHI THỨC

LỄ PHẬT

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

- Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:

   Án lam tóa ha. (3 lần)

- Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

   Án ta phạ, bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

 

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

(Thắp hương niệm bài cúng hương)

Nguyện đem ḷng thành kính,

Gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương,

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời sống đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm bồ đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác. (c)

(Cắm hương lên lư)


 

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng,

Ba cơi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài,

Quy y tṛn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. (c)

 

QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (c)

 

ĐẢNH LỄ

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ

 

pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

*

 

LỄ PHẬT A DI ĐÀ

 

(Thỉnh một tiếng chuông và lễ một lạy sau mỗi câu)

Chí Tâm Đảnh Lễ  (Mỗi câu đều đọc)

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Lượng Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Biên Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Ngại Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di

Đà Hải Hội Vô Đối Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di


 

 

Đà Hải Hội Diệm Vương Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Thanh Tịnh Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Hoan Hỷ Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Trí Tuệ Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Nan Tư Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Bất Đoạn Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Vô Xưng Quang Như Lai.

 

Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai.

 

Thuờng Tịch Quang Tịnh Độ, A Di Đà Như Lai, Pháp Thân Mầu Thanh Tịnh, Khắp Pháp Giới Chư Phật.

 

 

Thật Báo Trang Nghiêm Độ, A Di Đà Như Lai, Thân Tướng Hải Vi Trần, Khắp Pháp Giới Chư Phật.

 

Phương Tiện Thánh Cư Độ, A Di Đà Như Lai, Thân Trang Nghiêm Giải Thoát, Khắp Pháp Giới Chư Phật.

 

Cơi An Lạc Phương Tây, A Di Đà Như Lai, Thân Căn Giới Đại Thừa, Khắp Pháp Giới Chư Phật.

 

Cơi An Lạc Phương Tây, A Di Đà Như Lai, Thân Hóa Đến Mười Phương, Khắp Pháp Giới Chư Phật.

 

Cơi An Lạc Phương Tây, Giáo Hạnh Lư Ba Kinh, Tận Nói Bày Y Chánh, Khắp Pháp Giới Tôn Pháp.

 

Cơi An Lạc Phương Tây, Quán Thế Âm Bồ Tát, Thân Tử Kim Muôn Ức, Khắp Pháp Giới Bồ Tát.

 

Cơi An Lạc Phương Tây, Đại Thế Chí Bồ Tát, Thân Trí Sáng Vô Biên, Khắp Pháp Giới Bồ Tát.

 

 

Cơi An Lạc Phương Tây, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng, Thân Hai Nghiêm Phước Trí, Khắp Pháp Giới Thánh Chúng.

 

*

 

 KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh,  hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử.

 

Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

VĂNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN:

    Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.  A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam  bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca  lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) (c)

 

 

PHÁT NGUYỆN

Sông ái dài muôn dặm

Biển mê sóng vạn tầm

Cơi luân hồi muốn thoát

Niệm Phật hăy nhất tâm. (c)

Tịnh Độ từ chân tâm

Di Đà nơi tự tánh

Chiếu sáng khắp mười phương

Trong tất cả ba đời

Vẫn không rời hiện cảnh

Con nay xin hướng về

Đức Phật A Di Đà

Giáo chủ cơi Tịnh Độ

Nguồn ánh sáng vô lượng

Gốc thọ mạng vô cùng

Một ḷng xin quán tưởng

Và tŕ niệm hồng danh. (c)

 

Nam mô A Di Đà Phật. (10 lần hay nhiều hơn) (c)

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)(c)

Nam mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần) (c)

Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

                                                              (3 lần) (c)     

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

                                                              (3 lần) (c)

 

PHÁT NGUYỆN

Nương tựa A Di Đà

Nơi chân tâm mầu nhiệm

 

 

Con dốc ḷng quay về

Duy tŕ nguồn chánh niệm

Con đă nguyền trở lại

Nương tựa A Di Đà

Cúi xin Phật nhiếp thọ

Cơi Tịnh Độ bày ra

Xin lấy đuốc ánh sáng

Soi vào tâm tư con

Xin lấy thuyền thọ mạng

Chuyên chở h́nh hài con

Cho sự sống an lạc

Cho lư tưởng vẹn toàn

Xin Phật luôn bảo hộ

Để tâm không buông lơi

Cho con phá tà kiến

Làm phiền năo rụng rơi

Trong giây phút hiện tại

Có Phật trong cuộc đời

Tịnh Độ đi từng bước

Vững chăi và thảnh thơi

Hiện tại sống chánh niệm

Tịnh Độ đă thật rồi

Sau này đổi thân khác

Thế nào cũng an vui

Niệm Phật A Di Đà

Được nhất tâm bất loạn

Chín phẩm sen hiện tiền

Tự tha đều thọ dụng

 

 

Biết trước giờ mạng chung

Tâm con không nao núng

Thân con không bệnh khổ

Ư con không ngại ngùng.

Di Đà cùng thánh chúng

Tay nâng đóa sen vàng

Có mặt trong giây lát

Cùng lên đường thong dong

Sen nở là thấy Phật

Tịnh Độ là quê hương

Cúi xin Phật chứng giám

Hành tŕ không buông lung. (c)

 

TÁN LỄ TÂY PHƯƠNG

Kính lạy Phương Tây

Cơi Tịnh vui thay

Hoa sen chín phẩm thơm lây

Châu báu hàng cây

Trời thường trỗi nhạc vang dầy.

A Di Đà Phật

Phóng hào quang lớn!

Cứu độ chúng sanh vô lượng

Điềm lành thay!

Hiện tiền đại chúng ca dương

Nguyện sanh an dưỡng

Hiện tiền đại chúng ca dương

Đồng sanh an dưỡng. (c)

 

 

KỆ KHUYẾN ĐẠI CHÚNG

Ngày đă dần qua

Mạng sống giảm dần

Như cá thiếu nước

Làm sao an vui

Đại chúng phải nên tinh tấn

Như cứu lửa cháy đầu

Nghĩ đến vô thường

Đừng nên buông thả! (cc)

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng. (c)

                                                        (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Lễ Phật pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (c)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

 

 

Phiền năo xin nguyện đoạn

Quả Phật xin chứng nên. (c)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Phật và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (c)

Nguyện dứt hết phiền năo

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

 

*

 

 

SÁM HỐI

HỒNG DANH

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

- Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:

   Án lam tóa ha. (3 lần)

- Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

   Án ta phạ, bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

 

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

(Thắp hương niệm bài cúng hương)

Nguyện đem ḷng thành kính,

Gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương,

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời sống đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm bồ đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác. (c)

(Cắm hương lên lư)

 

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng,

Ba cơi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài,

Quy y tṛn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. (c)

 

QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (c)

 

ĐẢNH LỄ

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ

 

pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

*

(Khai chuông mơ)

CHÚ ĐẠI BI

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.

                                             (3 lần) (c)

    Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

    Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da.  Nam mô A lị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.  Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả.  Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a lị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

    Nam mô na ra cẩn tŕ hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.  Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà

 

da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.  Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn tŕ, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha.  Tất đà dạ ta bà ha.  Ma ha tất đà dạ ta bà ha.  Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ, ta bà ha.  Ma ra na ra ta bà ha, tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha.  Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.  Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.  Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ, ta bà ha.  Ma bà rị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. 

    Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da.  Nam mô a lỵ gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. 

    Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà giạ, ta bà ha. (3 lần) (c)

 

*

 

Nam mô Hồng Danh Hội Thượng Phật Bồ Tát.                                           

                                                              (3 lần) (c)

    Đại từ đại bi thương chúng sanh,

    Đại hỷ đại xả cứu muôn loài,

    Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm,

 

 

    Đệ tử chí tâm quy mạng lễ. (c)

 

Nam mô Kim Cang Thượng Sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. (c)

     

    Con nay phát tâm chẳng v́ tự cầu phước báo Nhơn, Thiên cùng quả Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đến các vị Bồ Tát trong quyền thừa. Con chỉ y theo tối thượng thừa phát tâm Bồ Đề, nguyện cùng chúng sanh trong pháp giới chung một lúc đồng chứng đặng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Nam mô quy y khắp mười phương cùng tận cơi hư không tất cả các Đức Phật.

 

Nam mô quy y khắp mười phương cùng tận cơi hư không tất cả Tôn Pháp.

 

Nam mô quy y khắp mười phương cùng tận cơi hư không tất cả Hiền Thánh Tăng.

 

Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. (c)

 

(Thỉnh một tiếng chuông sau mỗi câu và lễ một lạy)

Chí Tâm Đảnh Lễ   (mỗi câu đều đọc)

 

 

    Nam mô Phổ Quang Phật.

    Nam mô Phổ Minh Phật.

    Nam mô Phổ Tịnh Phật.

    Nam mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật.              

    Nam mô Chiên Đàn Quang Phật.

    Nam mô Ma Ni Tràng Phật.

    Nam mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật.

    Nam mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật.

    Nam mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật.

    Nam mô Huệ Cự Chiếu Phật.

    Nam mô Hải Đức Quang Minh Phật.

    Nam mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật.

    Nam mô Đại Cường Tinh Tấn Dơng Mănh Phật.

    Nam mô Đại Bi Quang Phật.

    Nam mô Từ Lực Vương Phật.

    Nam mô Từ Tạng Phật.

    Nam mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật.

 

 

    Nam mô Hiền Thiện Thủ Phật.

    Nam mô Thiện Ư Phật.

    Nam mô Quảng Trang Nghiêm Vương                                                    Phật.

    Nam mô Kim Hoa Quang Phật.

    Nam mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật.

    Nam mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật.

    Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương                                                    Phật.

    Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật.

    Nam mô Bất Động Trí Quang Phật.

    Nam mô Hàng Phục Chúng Ma Vương                                                 Phật.

    Nam mô Tài Quang Minh Phật.

    Nam mô Trí Huệ Thắng Phật.

    Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật.

    Nam mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật.

    Nam mô Thế Tịnh Quang Phật.

    Nam mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.

 

 

    Nam mô Nhựt Nguyệt Quang Phật.

    Nam mô Nhựt Nguyệt Châu Quang Phật.

    Nam mô Huệ Tràng Thắng Vương Phật.

    Nam mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật.

    Nam mô Diệu Âm Thắng Phật.

    Nam mô Thường Quang Tràng Phật.

    Nam mô Quang Thế Đăng Phật.

    Nam mô Huệ Oai Đăng Vương Phật.

    Nam mô Pháp Thắng Vương Phật.

    Nam mô Tu Di Quang Phật.

    Nam mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật.

    Nam mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù  Thắng Vương Phật.

    Nam mô Đại Huệ Lực Vương Phật.

    Nam mô A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật.

    Nam mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật.

    Nam mô Tài Quang Phật.

    Nam mô Kim Hải Quang Phật.

    Nam mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông

 

Vương Phật.

    Nam mô Đại Thông Quang Phật.

    Nam mô Nhứt Thiết Pháp Tràng Măn Vương Phật.

    Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.

    Nam mô Kim Cang Bất Hoại Phật.

    Nam mô Bảo Quang Phật.

    Nam mô Long Tôn Vương Phật.

    Nam mô Tinh Tấn Quân Phật.

    Nam mô Tinh Tấn Hỷ Phật.

    Nam mô Bảo Hỏa Phật.

    Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật.

    Nam mô Hiện Vô Ngu Phật.

    Nam mô Bảo Nguyệt Phật.

    Nam mô Vô Cấu Phật.

    Nam mô Ly Cấu Phật.

    Nam mô Dơng Thí Phật.

    Nam mô Thanh Tịnh Phật.

    Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật.

Nam mô Ta Lưu Na Phật.

Nam mô Thủy Thiên Phật.

Nam mô Kiên Đức Phật.

Nam mô Chiên Đàn Công Đức Phật.

Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật.

 

 

Nam mô Quang Đức Phật.

Nam mô Vô Ưu Đức Phật.

Nam mô Na La Diên Phật.

Nam mô Công Đức Hoa Phật.

    Nam mô Liên Hoa Quang Du Hí Thần                                         Thông Phật.

    Nam mô Tài Công Đức Phật.

    Nam mô Đức Niệm Phật.

    Nam mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật.

    Nam mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật.

    Nam mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật.

    Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật.

    Nam mô Thiện Du Bộ Phật.

    Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức Phật.

    Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật.

    Nam mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật.

    Nam mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà  Phật.

 

*                          

 

 

(Thỉnh ba tiếng chuông)

 

    Các Đức Phật Thế Tôn khắp trong tất cả thế giới như thế thường trụ tại trong đời, xin các Đức Thế Tôn nên từ niệm con.

 

    Hoặc đời này của con, hoặc đời trước của con, con từ vô thỉ sanh tử nhẫn đến nay gây phạm các điều tội lỗi, hoặc tự ḿnh làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm ḿnh vui mừng theo.

 

    Đồ vật của tháp, của hiện tiền Tăng, hay của tứ phương Tăng, hoặc tự ḿnh lấy, hoặc bảo người lấy, hoặc thấy người lấy ḿnh vui mừng theo.

 

    Năm tội vô gián, hoặc tự ḿnh làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm ḿnh vui mừng theo.

 

    Mười điều bất thiện, hoặc tự ḿnh làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm ḿnh vui mừng theo.

 

    Bao nhiêu tội chướng của con gây tạo ra, có che dấu hoặc không che dấu, đáng đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cùng các ác thú khác, đọa vào chốn biên địa, hạng hạ tiện, kẻ ác kiến.

 

 

    Những tội chướng đáng bị đọa vào các nơi khổ báo như thế, nay con đều xin sám hối. (c)

 

    Nay các Đức Phật Thế Tôn nên chứng biết cho con.  Con lại đối trước các Đức Phật Thế Tôn bạch lời này:

 

    Hoặc đời này của con, hoặc đời khác của con đă từng làm việc bố thí, hay giữ ǵn giới pháp trong sạch, nhẫn đến thí cho loài chim muông một vắt cơm.

 

    Hoặc đă từng tu hạnh thanh tịnh có bao nhiêu căn lành; thành tựu chúng sanh, có bao nhiêu căn lành, tu hành đạo Bồ Đề, có bao nhiêu căn lành, cho đến đă từng phát tâm vô thượng Phật trí, có bao nhiêu căn lành; hiệp nhóm so đếm tính lường tất cả căn lành thảy đều hồi hướng về đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

    Các Đức Phật trong thuở quá khứ, vị lai và hiện tại cách thức hồi hướng như thế nào, con cũng hồi hướng như thế đó.

 

    Những tội lỗi con đều sám hối.  Các phước lành con vội tùy hân. Với cùng thỉnh Phật công huân.  Trí mầu vô thượng nguyện thuần nên ngay.  Các Đức Phật khứ, lai, hiện tại.

 

Trong chúng sanh thắng Đại Thánh Vương.  Biển khơi công đức không lường.  Con nay quy mạng nguyện thường lễ tin.  Trong bao nhiêu mười phương cơi nước.  Cả ba đời các Đức Pháp Vương.  Con dùng ba nghiệp tịnh xương.  Khắp lễ tất cả mười phương vẹn tuyền.  Sức thần oai Phổ Hiền hạnh nguyện.  Trước Như Lai khắp hiện tự thân. Mỗi thân lại hiện trần thân.  Thân thân lễ khắp sát trần Thế Tôn. Trong một trần có trần số Phật.  Đều ở trong hội bực Thượng Nhân.  Khắp cùng pháp giới mảy trần.  Sâu tin chư Phật đều thường đầy trong.  Biển âm thanh đều dùng trọn vận.  Diệu ngôn từ vô tận khắp vang.  Vị lai cả kiếp thảy toàn.  Ngợi khen Phật đức biển ngàn rất sâu.  Tràng hoa đẹp rất xinh thơm ngát.  Cùng hương hoa ,kỹ nhạc, lọng tàn.  Như kia đồ tốt trang hoàng.  Cúng dường chư Phật con toàn kính dâng.  Y tối thắng cùng hương tối thắng.  Với đuốc đèn, hương phấn, hương xông.  Đều nhiều như Diệu Cao Phong.  Cúng dường chư Phật con đồng dâng lên.  Tâm thắng giải mông mênh con dụng.  Phật ba đời thảy cũng tin kiên. Đều nương hạnh nguyện Phổ Hiền.  Cúng dường chư Phật khắp miền mười phương.  Các tội ác xưa con lầm lỡ.  Do tham sân muôn thuở xui nên.  Từ thân ngữ ư sanh

 

lên.  Nay con cả thảy đều bền sám luôn.  Các

chúng sanh khắp mười phương cơi.  Bực nhị thừa, hữu học cùng vô.  Như Lai Bồ Tát vẹn tuyền.  Có bao công đức con nguyền vui ưa.  Thế gian Đăng trong mười phương nước.  Lúc tối sơ thành được Bồ Đề.  Nay con đều thỉnh một bề. Giảng truyền pháp diệu vỗ về quần sanh.  Các Đức Phật muốn toan nhập diệt.  Con chí thành măi miết ân cần. Cúi mong ở măi kiếp trần.  Làm cho lợi lạc khắp quần sanh linh.  Bao nhiêu phước cúng dường, lễ, tán.  Thỉnh ở đời cùng giảng pháp luân.  Vui theo, sám hối thiện căn.  Hồi sanh, hướng Phật, cao thăng Bồ Đề.  Con nguyện đem đức dày thắng lợi.  Hồi hướng chơn pháp giới tối cao.  Tánh, tướng Tam Bảo thế nào.  Hải Ấn Tam Muội dung vào tục chơn.  Biển công đức không lường như thế.  Nay con đều đem để hồi về.  Dưới cho muôn loại nương kề.  Cùng con đồng chứng Bồ Đề đạo chơn.  Bao nhiêu chúng nơi thân, khẩu, ư.  Ḷng mê lầm móng nghĩ sân si.  Chê bai Chánh Pháp Mâu Ni.  Thân tâm phạm quấy kể ǵ phải chăng.  Như trên nghiệp chướng tội thâm. Nguyện tiêu diệt hết ác tâm chẳng c̣n.  Trí huệ khắp đầy tṛn pháp giới. Độ chúng sanh chẳng nại gian lao.  Hư không thế giới dẫu hao.  Chúng sanh, phiền năo với nào nghiệp chung.  Nay con hồi

 

 

hướng rộng lung.  Cũng như bốn pháp vô cùng vô biên! (c)

 

Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát.  (3 lần) (c)

*

 

 KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh,  hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử.

 

Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

VĂNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN:

    Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.  A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam  bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) (c)

 

 


 

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng. (c)

                                                        (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Sám hối pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (c)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền năo xin nguyện đoạn

Quả Phật xin chứng nên. (c)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Phật và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (c)

Nguyện dứt hết phiền năo

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành

 

 

 

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

 

*

 

 

NGHI THỨC

CÔNG PHU KHUYA

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

- Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:

   Án lam tóa ha. (3 lần)

- Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

   Án ta phạ, bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

 

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

(Thắp hương niệm bài cúng hương)

Nguyện đem ḷng thành kính,

Gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương,

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời sống đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm bồ đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác. (c)

(Cắm hương lên lư)

 

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng,

Ba cơi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài,

Quy y tṛn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. (c)

 

QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (c)

 

ĐẢNH LỄ

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ
CÔNG PHU KHUYA                                                             

 

pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

*

(Khai chuông mơ)

 

Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát.  (3 lần) (c)                                       

 

Đức đại giác Thế tôn, đứng lặng rất nhiệm mầu.  Nắm giữ đuợc toàn thể, không thể nào lay động.  Và pháp Thủ Lăng Nghiêm, pháp chúa tể các pháp.  Phật và Pháp như vậy, thật ít có trong đời.  V́ diệt được cho con, vọng tưởng cả ức kiếp.  Có thể làm cho con, không cần phải trải qua.  Thời kỳ dài vô số, vẫn thể hiện pháp thân.  Con nguyện rằng ngày nay, đạt đuợc kết quả ấy.  Trở thành vị Bảo vương, lại hóa độ như vậy.  Cho các loại chúng sinh, tương đương cát sông Hằng.  Đem tâm sâu xa này, phụng sự thế giới hệ.  Nhiều như những hạt bụi, như thế mới gọi là.  Báo đáp đuợc xứng đáng, hồng ân đức Thế Tôn.  Con

 

phủ phục thỉnh cầu, Đức Thế Tôn từ bi.  Mà chứng minh cho con: trong thời kỳ dữ dội.  Đầy năm thứ vẩn đục, con nguyện vào đó trước.  Nếu  c̣n một chúng sinh, chưa được thành Phật đà.  Không bao giờ với họ, con bỏ mà niết bàn.  Con thỉnh cầu Thế Tôn, đức đại hùng đại lực.  Và đại từ đại bi, xin ngài xét lại nữa.  Mà diệt trừ cho con, những mê lầm nhỏ nhất.  Làm con sớm bước lên, ngôi tuệ giác vô thượng.  Ngồi bồ đề đạo tràng, khắp quốc độ mười phương.  Đặc tính như hư không, mà tiêu diệt đi nữa.  Tâm tinh tiến của con, cũng không thể chuyển động! (c)

 

Nam mô Thường trú mười phương Phật, (c)

Nam mô Thường trú mười phương Pháp, (c)

Nam mô Thường trú mười phương Tăng, (c)

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật, (c)

Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, (c)

Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát, (c)

Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát. (c)

 

    Khi ấy Thế Tôn, từ nơi nhục kế, nổi trên đỉnh đầu, phóng ra ánh sáng, trăm thức quí  báu, trong ánh sáng ấy, hiện ra hoa sen, đủ cả ngàn cánh.  Có Đức Như lai, do Đức Thế Tôn, đă hóa hiện ra, ngồi trên hoa ấy, và đỉnh ngài này, cũng phóng ra thêm, mười đường ánh sáng, trăm thức quí báu.  Mỗi ánh sáng

 

này, đều hiện các vị, Kim cang mật tích, tương đương số cát, của mười sông Hằng, tay th́ nâng núi, tay th́ cầm xử, tràn khắp không gian.  Đại chúng ngước nh́n, vừa sợ vừa thích, khẩn cầu Thế tôn, xót thương che chở, chuyên nhất tâm trí, nghe Đức Như Lai, hiện trong ánh sáng, đă được phóng ra, từ nơi đỉnh đầu, không thể nh́n thấy, của Đức Thế Tôn, tuyên thuyết thần chú: (c)

 

Thứ Nhứt -

    Nam mô tát đát tha tô dà đa da a ra ha đế tam miệu tam bồ đà tả.  Tát đát tha Phật đà câu chi sắt ni sam.

    Nam mô tát bà bột đà bột địa tát đá bệ tệ.

    Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đà câu tri nẫm. Sa xá ra bà ca tăng dà nẫm. 

    Nam mô lô kê a ra hán đá nẫm.

    Nam mô tô lô đa ba na nẫm.

    Nam mô sa yết rị đà dà di nẫm.

    Nam mô lô kê tam miệu dà đá nẫm.  Tam miệu dà ba ra để ba đa na nẫm. 

    Nam mô đề bà li sắt noản.

    Nam mô tất đà da tỳ địa da đà ra li

 

sắt noản.  Xá ba nô yết ra ha sa ha sa ra ma tha nẫm. 

    Nam mô bạt ra ha ma ni.

    Nam mô nhân đà ra da.

    Nam mô bà dà bà đế,  rô đà ra da.  Ô ma bát đế, sa hê dạ da. 

    Nam mô bà dà bà đế.  Na ra dả noa da.  Bàn dá ma ha tam mộ đà ra.

    Nam mô tất yết rị đa da.

    Nam mô bà dà bà đế, ma ha ca ra da.  Địa rị bát lặc na dà ra.  Tỳ bà ra ba noa ca ra da.  A địa mục đế.  Thi ma xá na nê bà tất nê.  Ma đát rị dà noa.

    Nam mô tất yết rị đa da.

    Nam mô bà dà bà đế.  Đa tha dà đá câu ra da.

    Nam mô bát đầu ma câu ra da.

    Nam mô bạt xà ra câu ra da.

    Nam mô ma ni câu ra da.

    Nam mô dà xà câu ra da. 

    Nam mô bà dà bà đế, đế rị trà thâu ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đá tha dà đa da.

    Nam mô bà dà bà đế.

 

 

    Nam mô a di đa bà da, đá tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

    Nam mô bà dà bà đế, a sô bệ da, đá tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

    Nam mô bà dà bà đế, bệ sa xà da câu rô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đá tha dà đa da.

    Nam mô bà dà bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đá tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

    Nam mô bà dà bà đế, xá kê dă mẫu na duệ, đá tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.

    Nam mô bà dà bà đế, lặc đát na kê đô ra xà da, đá tha dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da, đế biều nam mô tát yết rị đa, ế đàm bà dà bà đa, tát đát tha dà đô sắt ni sam, tát đát đa bát đát lam.

    Nam mô a bà ra thị đam, bát ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạt ra bí địa da sắt đa nễ, a ca ra mật rị trụ, bát rị

 

đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắt tra, đột tất phạp bát na nễ phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha sa ha tát ra nhă xà, tỳ đa băng sa na yết rị, a sắt tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đát ra nhă xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắt tra nẫm, ma ha yết ra ha nhă xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô rô nễ bà ra nhă xà, hô lam đột tất phạp nan da na xá ni, bí sa xá tất đát ra, a cát ni ô đà ca ra nhă xà, a bát ra thị đa cụ ra, ma ha bát ra chiến tŕ, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nễ, a rị da đa ra, tỳ rị câu tri, thệ bà tỳ xà da, bạt xà ra ma lễ để, tỳ xá rô đa, bột đằng vơng ca, bạt xà ra chế hát na a dá, ma ra chế bà bát ra chất đa, bạt xà ra thiện tŕ, tỳ xá ra dá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma rô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra a bát ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra câu ma rị, câu lam đa rị, bạt xà ra hát tát đa

 

dá, tỳ địa da càn dá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ rô dá na câu rị da, dạ ra thố sắt ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni dá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, rô xà na bạt xà ra đốn trĩ dá, thuế đa dá ca ma ra, sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, sa bệ ra sám, quật phạn đô, ấn thố na mạ mạ tả. (c)

 

Thứ Hai -

    Ô hộng, rị sắt yết noa, bát lặc xá tất đa, tát đát tha dà đô sắt ni sam.  Hổ hộng, đô rô ung, chiêm bà na.  Hổ hộng, đô rô ung, tất đam bà na. Hổ hộng, đô rô ung, ba ra sắt địa da tam bát xoa noa yết ra.  Hổ hộng, đô rô ung, tát bà duợc xoa hát ra sát sa, yết ra ha nhă xà, tỳ đằng băng tát na yết ra.  Hổ hộng, đô rô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha sa ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra.  Hổ hộng, đô rô ung, ra xoa bà dà phạn, tát đát tha dà đô sắt ni sam, ba ra điểm xà cát rị, ma ha sa ha tát ra, bột thọ sa ha tát ra thất

 

 

rị sa, câu tri sa ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca, ma ha bạt xà rô đà ra, đế rị bồ bà na, mạn trà ra, ô hộng, sa tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tả. (c)

 

Thứ Ba -

    Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ sa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chuớc yết ra bà dạ, đột sắt xoa bà dạ, a xá nễ bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba dà ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàn trà bà dạ, na dà bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá dá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, bổ đan na yết ra ha, ca tra bổ đan na yết ra ha, tất càn độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xă đa ha rị nẫm, yết bà ha rị nẫm, rô địa ra ha rị nẫm, mang sa ha rị nẫm, mê đà ha rị nẫm, ma xà ha rị nẫm, xà đa ha rị nữ,

 

thị tỉ đa ha rị nẫm, tỳ đa ha rị nẫm, bà đa ha rị nẫm, a thâu dá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẫm, tỳ đa dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát thâu bát đát dạ, rô đà ra ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa dà rô trà tây ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha ca ra ma đát rị dà noa ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha sa đạt na ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nễ ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương ngật rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bát đế, sách hê dạ ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di,

 

kê ra dạ di, na yết na xá ra bà noa ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a ra hán ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra dà ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nễ, cụ hê dạ cụ hê dạ, ca địa bát đế ngật rị đảm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra xoa vỏng, bà dà phạn, ấn thố na mạ mạ tả. (c)

 

 Thứ Tư -

    Bà dà phạn, tát đát đa bát đát ra.  Nam mô túy đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà.  Hổ hộng.  Hổ hộng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, sa ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, bà ra ba ra đa phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na dà tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà càn thát bà tệ phấn, tát bà bổ đan na tệ phấn, ca tra

 

bổ đan na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỉ lê ngật sắt đế tệ phấn, tát bà thập bà rị tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kế tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ dá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha sa đà kê tệ phấn, tỳ địa dạ dá rị tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nễ tệ phấn, bạt xà ra câu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa kỳ rị tệ phấn, bạt xà ra thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa.

    Nam mô sa yết rị đa dạ phấn, bí sắt noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn tŕ duệ phấn, miệt đát rị duệ phấn, lạo đát rị duệ phấn, dá văn trà duệ phấn, yết lă ra đát rị duệ phấn, ca bát rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nễ duệ phấn, diễn cát chất, tát đỏa bà tả, mạ

 

mạ ấn thố na mạ mạ tả. (c)

 

Thứ Năm -

    Đột sắt tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, dà bà ha ra, rô địa ra ha ra, bà sa ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị bí đa ha ra, bạt luợc dạ ha ra, càn đa ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tả ha ra, bát ba chất đa, đột sắt tra chất đa, lạo đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát sa yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá dá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất càn đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tát ma ra yết ra ha, trạch khu cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá câu ni yết ra ha, mộ đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, càn độ ba ni yết ra ha, thập phạt ra chân ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra bí sam ma thập phạt ra, bạc để ca,  tĩ để ca, thất lệ sắt mật ca, sa nễ bát đế ca, tát bà thập phạt ra, thất rô cát đế, mạt đà

 

bệ đạt rô chế kiếm, a ỷ rô kiềm, mục khu rô kiềm, yết rị đột rô  kiềm, yết ra ha yết lam, yết noa thâu lam, đạn đa thâu lam, ngật rị dạ thâu lam, mạt ma thâu lam, bạt rị thất bà thâu lam, bí lật sắt tra thâu lam, ô đà ra thâu lam, yết tri thâu lam, bạt tất đế thâu lam, ô rô thâu lam, thường dà thâu lam, hát tất đa thâu lam, bạt đà thâu lam, sa pḥng áng dà bát ra trượng dà thâu lam, bộ đa bí đá trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột rô ca kiến đốt rô cát tri bà lộ đa tỳ, tát bát rô ha lăng dà, thâu sa đát ra sa na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liễm bộ ca, địa lật lặc tra, bí rị sắt chất ca, tát bà na câu ra, tứ dẫn dà tệ yết ra rị dược xoa đát ra sô, mạt ra thị phệ đế sam sa bệ sam, tất đát đa bát đát ra, ma ha bạt xà rô sắt ni sam, ma ha bát lại trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đam ca rô di, đế thù bàn đàm ca rô di, bát ra tỳ đà bàn đàm ca rô di, đát

 

điệt tha.

    Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nễ, bạt xà ra báng ni phấn.  Hổ hộng đô rô ung phấn, sa bà ha. (ccc)

 

*

 

CHÚ ĐẠI BI

    Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

    Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da.  Nam mô A lị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.  Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả.  Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a lị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

    Nam mô na ra cẩn tŕ hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.  Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà  da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.  Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm,

 

Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn tŕ, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha.  Tất đà dạ ta bà ha.  Ma ha tất đà dạ ta bà ha.  Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ, ta bà ha.  Ma ra na ra ta bà ha, tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha.  Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.  Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.  Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ, ta bà ha.  Ma bà rị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. 

    Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da.  Nam mô a lỵ gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. 

    Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà giạ, ta bà ha. (c)

 

 MƯỜI THẦN CHÚ KHÁC

 

1. THẦN CHÚ NHƯ Ư LUÂN VƯƠNG

    Nam mô Phật đà da.  Nam mô Đạt ma da.  Nam mô Tăng dà da.  Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát ma ha tát, cụ đại bi tâm giả, đát điệt tha.  Án, chước yết ra phạt để, chấn đa mạt ni, ma ha bát đắng mế, rô rô rô rô, để sắt tra, thước ra a yết rị, sa dạ hộng, phấn sa ha. Án, bát đạp ma, chấn đa mạt ni, thước ra

 

hộng.  Án, bạt lặc đà, bát đắng mế hộng. (c)

 

2. THẦN CHÚ TIÊU TAI CÁT TƯỜNG

    Nam mô tam măn đà, mẫu đà nẫm.  A bát ra để, hạ đa xá, ta nản nẫm.  Đát điệt tha.   Án, khư khư, khư hê, khư hê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ ta phạ ha. (c)

 

3. THẦN CHÚ CÔNG ĐỨC BẢO SƠN

    Nam mô Phật đà da.  Nam mô Đạt ma da.  Nam mô Tăng dà da.  Án, tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha. (c)

 

4. THẦN CHÚ ĐẠI CHUẨN ĐỀ

Cúi đầu qui y pháp Tô tất đế,

Sát đất kính lạy đức Thất câu chi,

Nay con tán dương chú Đại Chuẩn Đề,

Nguyện xin từ bi nhiếp thọ cho con.

 

    Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đề, câu chi nẫm, đát diệt tha.  Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề, ta ba ha. (c)

 

5. THẦN CHÚ VÔ LƯỢNG THỌ

    Án, nại ma ba cát ngơa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nễ, thiệt chấp đạp,

 

điệp tả ra tể dă, đát tháp ca đạt dă, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dă, đát nễ dă tháp.  Án, tát rị ba, tang tư cát rị, bát rị thuật đạp, đạt ra mă đế, ca ca nại, tang mă ngột ca đế, sa ba ngơa, tỉ thuật đế, mă hát nại dă, bát rị ngơa rị ta hát. (c)

 

6. THẦN CHÚ DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH

    Nam mô bạt dà phạt đế, bệ sát xả, lụ rô thích lưu ly, bác lặt bà, hắt ra xà dă, đát tha yết đa da, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da.  Đát điệt tha.  Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xă, tam một yết đế tóa ha. (c)     

                                                                                                7. THẦN CHÚ QUÁN ÂM LINH CẢM    

    Án ma ni bát di hộng, ma hát nghê nha nạp, tích đô đặc ba đạt, tích đặc ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cán nhi tháp, bốc rị tất tháp cát, nạp bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thắt ban nạp, nại ma rô cát, thuyết ra da, tá ha. (c)

 

8. THẦN CHÚ THẤT PHẬT DIỆT TỘI

    Ly bà ly bà đế, Cầu ha cầu ha đế, Đà ra ni đế, Ni ha ra đế, Tỳ lê nễ đế, Ma ha dà đế, Chơn lăng càn đế, Ta bà ha. (c)

 

9. THẦN CHÚ VĂNG SANH TỊNH ĐỘ

    Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.  A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất

 

đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (c)

 

10. THẦN CHÚ CÁT TƯỜNG THIÊN NỮ

    Nam mô Phật đà, nam mô Đạt ma, nam mô Tăng dà.  Nam mô thất rị, ma ha đề ti da, đát nễ dă tha, ba lị phú lâu na, dá lị tam mạn đà, đạt xá ni, ma ha tỳ ha ra dà đế, tam mạn đà, tỳ ni dà đế, ma ha ca lị dă, ba nễ, ba ra ba nễ, tát lị phạ lật tha, tam mạn đà, tu bát lê đế, phú lệ na, a lị na, đạt ma đế, ma ha tỳ cổ tất đế, ma ha di lạc đế, lâu phả tăng kỳ đế, hê đế tỉ tăng kỳ hê đế, tam mạn đà, a tha a nậu, đà ra ni. (c)

 

*

 

KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

 

 

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh, hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử. Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc

 

thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

HỒI HƯỚNG

Từ trên đến đây, tịnh chúng hiện tiền

Tŕ tụng Lăng Nghiêm và các thần chú.

Nguyện đem công đức tŕ tụng như vậy

Hướng về Tam Bảo, tám bộ thiên long,

Các thánh thủ hộ cho chốn già lam.

Hết ḷng nguyện cầu ba đường tám nạn

Cùng thoát khổ lớn, bốn ơn ba cơi

Toàn gội ơn cao; lại càng nguyện ước

Quốc gia yên ổn chinh chiến tiêu tan,

Mưa gió thuần ḥa dân chúng an lạc.

Tăng chúng huân tu hy vọng thắng tiến,

Lên ngay mười địa không có khó khăn;

Sơn môn thanh tịnh tuyệt hết lầm lỗi,

Đàn tín qui y tăng thêm phước tuệ. (c)

 

TÁN PHẬT

Trên trời dưới trời không ai như Phật,

Mười phương quốc độ cũng không sánh bằng;

Vũ trụ có ǵ con xét thấy hết,

Tất cả không ai không ǵ như Phật.

Ư nghĩ như bụi có thể đếm biết,

Nước trong biển cả có thể uống sạch,

Không gian lường được, gió lớn buộc được,

 

 

Nói không hết đuợc công đức Phật đà. (c)

 

    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, là ḥa thượng bổn sư, giáo chủ quốc độ Ta bà, vị thầy cao cả của ba cơi, vị cha từ bi của bốn loài, giáo hóa cho cả nhân thiên, phân thân đến ngàn trăm ức. (c)

 

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.  (3 đến 7 ṿng)  

                                                      (c) 

Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. (3 lần)

                                                                   (c)

Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.   (3 lần)   

                                                               (c)

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)

                                                               (c)

Nam mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.

                                                      (3 lần) (ccc)

 

PHÁT NGUYỆN

Đệ tử chúng con nguyện tu tập theo mười hạnh nguyện vương của đức Phổ Hiền:

 

    Một là lễ kính Phật đà,

    Hai là tán dương Như Lai,

    Ba là hiến cúng rộng lớn,

    Bốn là sám hối nghiệp chướng,

    Năm là tùy hỷ công đức,

    Sáu là xin chuyển pháp luân,

    Bảy là xin Phật ở đời,

 

 

    Tám là thường học theo Phật,

    Chín là hằng thuận chúng sinh,

    Mười là hồi hướng khắp cả.

 

Hạnh nguyện Phổ Hiền này là hạnh nguyện tối thượng, phước đức cũng tối thượng và vô lượng vô biên.  Con xin hồi hướng cả, nguyện cầu cho chúng sinh đang c̣n bị ch́m đắm mau chóng sinh Cực Lạc quốc độ đức bổn tôn A Di Đà Như Lai. (c)

 

TÁN LỄ

Tán dương kính lạy Thích Ca Thế Tôn

Là đức bổn sư năng nhân vô thượng:

Ngài đă trải qua ba vô số kiếp

Huân tu lâu dài nhân địa chân thật,

Và từ Đâu Suất giáng sinh Thiên trúc,

Trường từ ngôi báu kim luân thánh vương,

Ngồi ṭa bồ đề cả phá ma quân,

Một nh́n sao sáng liền thành đạo cả,

Mưa xuống nước mưa chánh pháp mầu nhiệm.

Thánh giả tam thừa qui tâm Thế tôn

Tuệ giác vô sinh đă được thực hiện,

Hiện tiền chúng con qui tâm Thế tôn

Tuệ giác vô sinh mau được thực hiện. (c)

Bốn loài chín cơi

Đồng lên cửa huyền Hoa tạng,

 

 

Tám nạn ba đường

Cùng vào biển tánh Tỳ lô. (c)

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng. (c)

                                                        (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

 

*

 

 

 

 

PHỤ LỤC: BÀI QUI MẠNG

 

    Kính lạy khắp mười phương các Đức Điều Ngự Sư, cùng với Vi diệu pháp do các ngài tuyên dương, và những Giải thoát tăng là bốn quả ba thừa, nguyện ban ḷng từ mẫn nhiếp thọ cho chúng con.

   

    Đệ tử chúng con tự trái tánh thật, vào oan ḍng mê; nổi ch́m theo sống chết, tham nhiễm với sắc thanh.  Mười triền mười sử chứa thành nguyên nhân hữu lậu, sáu căn sáu trần gây nên tội lỗi vô biên. Ch́m hoài biển khổ, lún sâu đường tà.  Chấp trước bản ngă, đam mê tha nhân; nâng đỡ kẻ cong, loại bỏ người thẳng.  Nghiệp chướng nhiều đời, lỡ lầm bao kiếp, ngửa mong Tam bảo dũ ḷng từ bi, lọc sạch nhất tâm cầu xin sám hối. (c)

 

    Chúng con nguyện cầu được đức Năng Nhân cứu vớt được các thiện hữu dắt d́u, ra khỏi hầm hố phiền năo vượt đến bến bờ Bồ Đề.  Đời này, nền phước đức ngôi sinh mạng, đều mong tốt thịnh, kiếp sau, giống tuệ giác lúa tâm linh đều cầu lớn tươi.  Sinh nhằm xứ trung tâm lớn gặp thầy minh trí, xuất gia với đức chánh tín nhập đạo bằng tuổi đồng chân, sáu căn lành sáng ba nghiệp thuần ḥa, không nhiễm thế duyên thường tu phạn

 

hạnh, chấp tŕ giới luật, trần nghiệp không thể xâm phạm, nghiêm hộ uy nghi, côn trùng không tổn thương.  Không gặp tám nạn, chẳng thiếu bốn duyên, trí bát nhă thường hiện tiền tâm Bồ Đề không thoái chuyển, tu tập chánh pháp, liễu ngộ đại thừa, mở cửa hạnh nguyện sáu Ba La Mật, vượt biển đời kiếp, ba a tăng kỳ.  Nơi nơi dựng cờ chánh pháp, lớp lớp phá lưới hoài nghi, chiến thắng loài ma, thừa kế ḍng Phật, phụng sự mười phương Phật đà, không hề mệt nhọc, tu học toàn bộ pháp môn đều được thông suốt, thực hành rộng lớn mọi thứ phước tuệ, ích lợi cùng khắp các loài chúng sinh, thành tựu sáu pháp thần thông, viên măn một đời Phật quả.  Thế rồi sau đó, không bỏ pháp giới, khắp vào trần lao, đồng đẳng với từ tâm Quan âm, hoạt động theo hạnh nguyện Phổ hiền: (c)

 

    Cơi này cơi khác, tùy loại tùy h́nh, ứng hiện sắc thân, tuyên dương diệu pháp.  Chỗ khổ địa ngục, đường khốn ngạ quỷ, th́ phóng ánh sáng lớn, hoặc hiện thần biến nhiều, những người thấy h́nh, những ai nghe tiếng, đều phát Bồ Đề tâm, đều thoát luân hồi khổ.  Chỗ vạc lửa sông băng, th́ biến thành rừng hương, loài uống đồng ăn sắt, đều hóa sinh cơi tịnh, khoác lông đội sừng, mắc nợ ngậm

 

oan, hết cả cay chua, đồng nhuần lợi lạc.  Lúc bịnh th́ hiện làm dược liệu, chữa cơn trầm trọng, thời đói lại hóa thành thóc lúa, cứu kẻ đói nghèo, hễ có ích lợi, th́ làm tất cả.  Ước nguyện thân thù bao kiếp, cầu mong bà con hiện tại, đều thoát bốn loài ch́m ngập, đều bỏ muôn kiếp ái ân, cùng mọi sinh linh, cùng thành Phật trí.  Không gian có hết, nguyện con không cùng, Hữu t́nh vô t́nh, đồng thành Phật đạo. (CCC)

 

*

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NGHI THỨC

CẦU AN

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

- Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:

   Án lam tóa ha. (3 lần)

- Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

   Án ta phạ, bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

 

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

(Thắp hương niệm bài cúng hương)

Nguyện đem ḷng thành kính,

Gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương,

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời sống đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm bồ đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác. (c)

(Cắm hương lên lư)

 

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng,

Ba cơi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài,

Quy y tṛn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. (c)

 

QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (c)

 

ĐẢNH LỄ

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ

 

pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

*

(Khai chuông mơ)

CHÚ ĐẠI BI

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.

                                             (3 lần) (c)

    Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

    Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da.  Nam mô A lị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.  Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả.  Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a lị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

    Nam mô na ra cẩn tŕ hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.  Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng,

 

câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.  Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn tŕ, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha.  Tất đà dạ ta bà ha.  Ma ha tất đà dạ ta bà ha.  Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ, ta bà ha.  Ma ra na ra ta bà ha, tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha.  Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.  Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.  Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ, ta bà ha.  Ma bà rị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. 

    Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da.  Nam mô a lỵ gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. 

    Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà giạ, ta bà ha. (3 lần) (c)

 

KHAI KINH

Pháp Phật cao siêu mầu nhiệm,

Cơ duyên may được thọ tŕ,

Xin nguyện đi vào biển Tuệ,

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (c)

 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                     (3 lần) (c)

Nam mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát.                         

                                                              (3 lần) (c)

*

 

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

PHẨM PHỔ MÔN

 

    Vào lúc bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ư đứng khỏi chỗ ḿnh ngồi, trần vai bên phải, chấp tay hướng về Đức Thế Tôn mà thưa: Bạch Đức Thế Tôn, Quan Âm đại sĩ v́ lư do ǵ mà danh hiệu là Quán Thế Âm?

 

    Đức Thế Tôn dạy Bồ Tát Vô Tận Ư, thiện nam tử, vô số trăm ngàn vạn ức chúng sinh bị sự đau khổ, nghe nói đến Quan Âm đại sĩ mà một ḷng tŕ niệm danh hiệu của Ngài, th́ đại sĩ tức khắc nghe thấy âm thanh ấy và họ được thoát cả.

 

    Tŕ niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ th́ vào lửa dữ, lửa ấy không đốt được, và đó là do thần lực của vị đại sĩ này.  Nếu bị nước lớn trôi cuốn mà tŕ niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, th́ tức khắc được chỗ nước cạn.  Trăm ngàn vạn ức người, v́ kiếm bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, trân châu

 

và những thứ quư báu cùng loại, nên ra biển cả; giả sử bị trận gió lớn trong bầu trời u ám thổi bạt thuyền tàu sa vào đảo quốc la sát, trong những người ấy đến nổi chỉ có một kẻ tŕ niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, những người ấy cũng vẫn thoát được cái họa la sát.  V́ những lư do như vậy mà vị đại sĩ này danh hiệu là Quán Thế Âm.

 

    Người nào sắp bị hành h́nh mà tŕ niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, th́ dao gậy trong tay đao phủ tức khắc găy ra từng đoạn và người ấy thoát được.  Giả sử đầy cả đại thiên thế giới là dạ xoa, la sát, muốn đến hại người nào mà nghe người ấy tŕ niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, th́ những quỷ dữ này không thể nh́n người ấy bằng mắt dữ, huống chi làm hại.  Bất cứ có tội không tội, người nào bị gông cùm xích buộc, mà tŕ niệm danh hiệu  Quan Âm đại sĩ, th́ những h́nh cụ ấy đứt và hỏng cả, và người này tức th́ thoát được.  Giả sử đầy cả đại thiên thế giới là giặc cướp, có người cầm đầu một đoàn người đi buôn, mang cầm vàng ngọc quư giá mà đi qua con đường nguy hiểm; trong đoàn ấy có kẻ nói các thiện nam tử, đừng sợ, chúng ta nên hết ḷng mà tŕ niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ.  Vị đại sĩ này có thể ban cho mọi người sự

 

không sợ hăi; chúng ta tŕ niệm danh hiệu đại sĩ th́ sẽ thoát được giặc cướp trên con đường này.  Đoàn người đi buôn nghe nói th́ đồng thanh mà niệm nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.  Nhờ sự tŕ niệm danh hiệu đại sĩ mà tức khắc thoát được.  Vô Tận Ư, thần lực Quan Âm đại sĩ đồ sộ đến như thế ấy.

   

    Ai có tính đa dâm mà thường xuyên tŕ niệm tôn kính Quan Âm đại sĩ th́ thoát được tính ấy.  Ai có tính đa si mà thường xuyên tŕ niệm tôn kính Quan Âm đại sĩ th́ thoát được tính ấy.  Vô Tận Ư, Quan Âm đại sĩ có thần lực vĩ đại, ích lợi rất nhiều như vậy.  Do vậy mà mọi người nên thường xuyên tâm niệm đại sĩ.

   

    Nữ nhân nào muốn cầu con trai mà lễ bái hiến cúng Quan Âm đại sĩ, th́ sinh được con  trai vừa có phước đức vừa có trí tuệ.  Nữ nhân nào muốn cầu con gái mà lễ bái hiến cúng Quan Âm đại sĩ, th́ sinh được con gái đoan chính, đẹp, có gốc rễ phước đức gieo trồng trong đời trước và được mọi người mến trọng.  Vô Tận Ư, Quan Âm đại sĩ có thần lực như vậy, ai tôn kính lễ bái th́ được phước chứ không phải vô hiệu quả.

 

    V́ lư do này mà mọi người nên tŕ niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ.  Vô Tận Ư, ai tŕ

 

niệm danh hiệu liệt vị Bồ Tát nhiều bằng sáu mươi hai ức hằng sa, và suốt đời hiến cúng đồ ăn đồ uống đồ mặc đồ nằm và dược phẩm, th́ ư ông nghĩ thế nào, thiện nam hay thiện nữ ấy được phước nhiều không?  Rất nhiều, bạch Đức Thế Tôn.  Bồ Tát Vô Tận Ư thưa như vậy. Và Đức Thế Tôn lại nói.  Ai tŕ niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, và đến nổi chỉ lễ bái hiến cúng được một th́ gian mà thôi, phước người này với phước người trước chính xác đồng đẳng, không khác ǵ nhau, và hưởng thụ đến trăm ngàn vạn ức thời kỳ cũng vẫn không thể cùng tận.  Vô Tận Ư, tŕ niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ được phước không có số lượng và không có giới hạn như vậy.

 

    Bồ Tát Vô Tận Ư lại thưa, bạch Đức Thế Tôn, Quan Âm đại sĩ du hóa thế giới hệ Kham nhẫn này như thế nào?  Đại sĩ thuyết pháp như thế nào cho chúng sinh?  Phương cách thích nghi của đại sĩ là như thế nào?

 

    Đức Thế Tôn dạy Bồ Tát Vô Tận Ư.  Thiện nam tử, người ở thế giới nào nên hóa độ bằng thân h́nh Phật đà th́ Quan Âm đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân h́nh Duyên Giác th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh Thanh Văn th́

 

đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh Phạn Vương th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh Đế Thích th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh Tự Tại th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh Đại Tự Tại th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh Thiên Đại Tướng Quân th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh Tỳ Sa Môn th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh quốc chúa th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh trưởng giả th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh cư sĩ th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.   Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh tể quan th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh Bà La Môn th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Người nào nên hóa độ bằng thân h́nh tỳ kheo và tỳ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, th́ đại sĩ biến thể thân

 

h́nh ấy mà thuyết pháp.  Những người nên hóa độ bằng thân h́nh phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quan và Bà La Môn, th́ đại sĩ biến thể những thân h́nh phụ nữ ấy mà thuyết pháp.  Những người nên hóa độ bằng thân h́nh đồng nam và đồng nữ, th́ đại sĩ biến thể những thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Những ai nên hóa độ bằng thân h́nh tám bộ th́ đại sĩ biến thể những thân h́nh ấy mà thuyết pháp.  Ai nên hóa độ bằng thân h́nh thần Chấp Kim Cang th́ đại sĩ biến thể thân h́nh ấy mà thuyết pháp.

 

    Vô Tận Ư, Quan Âm đại sĩ hoàn hảo năng lực như vậy: dùng mọi thân h́nh vào mọi thế giới mà hóa độ cho chúng sinh.  Do vậy mà chư vị nên hết ḷng hiến cúng Quan Âm đại sĩ.  Trong nỗi kinh hoàng, trong cơn nguy cấp, trong sự hoạn nạn, Quan Âm đại sĩ có thể cho người sự không sợ hăi, nên thế giới hệ Kham nhẫn này ai cũng tôn xưng là “Người cho sự không sợ“.

 

    Bồ Tát Vô Tận Ư liền thưa, bạch Đức Thế Tôn, nay con xin hiến cúng Quan Âm đại sĩ.  Thưa rồi, vị Bồ Tát này cởi ngay xâu chuổi đủ thứ ngọc quư đang mang nơi cổ, giá trị trăm ngàn lạng vàng, hiến lên Quan Âm đại sĩ mà thưa, bạch đại sĩ, xin đại sĩ nhận cho một

 

cách hiến cúng theo chánh pháp bằng xâu chuổi ngọc quư giá này.  Nhưng Quan Âm đại sĩ không nhận.  Bồ Tát Vô Tận Ư lại thưa, bạch đại sĩ, xin đại sĩ thương tôi và thương chúng sinh mà nhận cho.  Lúc ấy Đức Thế Tôn dạy Quan Âm đại sĩ, hăy thương Bồ Tát Vô Tận Ư, thương bốn chúng tám bộ mà nhận xâu chuổi ngọc ấy.  Quan Âm đại sĩ tức khắc thương mà nhận, và phân xâu chuổi ngọc ấy làm hai phần, một phần hiến cúng Đức Thế Tôn, một phần hiến cúng bảo tháp của Đức Đa Bảo.  Đức Thế Tôn nói, Vô Tận Ư, Quan Âm đại sĩ với thần lực tự tại như vậy mà du hóa thế giới hệ này.

 

    Bấy giờ Bồ Tát Vô Tận Ư lại thưa hỏi Đức Thế Tôn bằng lời chỉnh cú sau đây:

 

Bạch Đức Thế Tôn.  Đấng đầy tướng quư!

Cho con hỏi lại.  Vị con Phật này.

V́ lư do ǵ.  Tên Quán Thế Âm?

Vào lúc bấy giờ.  Đấng đầy tướng quư.

Cũng dùng chỉnh cú.  Đáp lại như sau.

Này Vô Tận Ư.  Hăy nghe cho khéo.

Việc làm Quan Âm.  Là khéo đáp ứng.

Hết thảy mọi người.  Ở khắp mọi nơi.

Với sự thệ nguyện.  Sâu rộng như biển.

Một sự thệ nguyện.  Cực  kỳ hùng vĩ.

Vô cùng trong sáng.  Và được đại sĩ.

 

 

Đă từng phát ra.  Trong khi trải qua. 

Vô số thời kỳ.  Không thể nghĩ bàn.

Phụng sự rất nhiều.  Vạn ức Đức Phật.

Nay đây Như Lai.  Chỉ nói vắn tắt.

Ai nghe danh hiệu.  Hoặc thấy h́nh tượng.  Quan Âm đại sĩ.  Chuyên tâm tŕ niệm. 

Chứ không bỏ qua.  Th́ hết đau khổ. 

Ở trong những nơi. C̣n có đau khổ.

Bị kẻ ác ư.  Xô xuống hố lửa. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm Đại sĩ. 

Làm tắt hố lửa.  Như bị nước tưới. 

Trôi nổi biển cả.  Rồng, cá, quái vật. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm cho sóng nước.  Không thể nhận ch́m.  Trên đỉnh Tu Di.  Bị xô rơi xuống. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm như mặt trời.  Đứng trong không gian.  Kẻ ác đuổi rơi.  Chân núi đá cứng. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm không thương tổn.  Đến một mảy lông.  Giặc thù bao vây.  Cầm dao muốn hại. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm giặc thù ấy.  Sinh ra hiền lành. 

Bị họa vua chúa.  Sắp bị hành h́nh.

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm gươm đao phủ.  Găy liền từng đoạn.

Giam cầm gông xích.  Tay c̣ng chân cùm.  Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ.

 

 

Làm cho rời ra.  Mà thoát được liền. 

Trù, ếm, thuốc độc.  Muốn gây tai họa. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm cho về lại.  Nơi kẻ gây ra. 

Nếu bị la sát.  Rồng độc, quỷ dữ. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ.

Làm chúng tức th́.  Không dám làm hại. 

Thú dữ bao vây.  Nanh vuốt ghê rợn. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm chúng mau lẹ.  Tháo chạy mất hút. 

Rắn rít tiết phun.  Hơi độc như khói. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm chúng tự đi.  Liền theo tiếng niệm. 

Giông tố sấm sét.  Mưa đá mưa lớn. 

Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm cho tiêu tan.  Liền theo tiếng niệm.  Chúng sinh khốn đốn.  V́ bao đau khổ. 

Cái nh́n tuệ giác.  Của Quán Thế Âm. 

Đầy cả năng lực.  Cứu khổ cho đời. 

Quan Âm đại sĩ. Đầy thần thông lực. 

Đầy tuệ giác lực.  Đầy phương tiện lực. 

Cho nên khắp cả.  Mười phương thế giới.

Không đâu mà không.  Biến thể xuất hiện.  Chỗ dữ địa ngục.   Ngạ quỷ, súc sinh. 

Cho đến khổ lớn.  Sinh già bệnh chết. 

Đại sĩ làm cho.  Dần dần hết sạch. 

Nh́n đúng sự thật.  Nh́n thật trong suốt. 

Nh́n với tuệ giác.  Vô cùng vĩ đại.

 

 

Nh́n bằng đại bi.  Nh́n theo đại từ. 

Nên hăy thường xuyên. 

Nguyện cầu chiêm ngưỡng. 

Là thể trong suốt.  Sáng không tỳ vết.

Là vầng tuệ nhật.  Phá tan hắc ám. 

Là lửa rực sáng.  Xua tan tai nạn. 

Ngài trải hào quang.  Khắp cả trần gian. 

Bản thể đại bi.  Như sấm thức tỉnh. 

Ư thức đại từ.  Như mây dồn lớn. 

Đại sĩ mưa xuống.  Nước Pháp cam lộ. 

Rưới tắt lửa dữ.  Của bao phiền năo. 

Đối chất cửa quan.  Kinh hoàng chiến trận.  Năng lực tŕ niệm.  Quan Âm đại sĩ. 

Làm cho giặc thù.  Lui bước tan ră.

Tiếng cực tinh tế.  Tiếng nh́n vào đời. 

Tiếng giống Phạn thiên.  Tiếng như hải triều.  Tiếng hơn tất cả.  Cung bậc trong đời. 

Nên hăy thường xuyên.  Chuyên tâm tŕ niệm.  Hăy niệm liên tục.  Đừng có hoài nghi. 

Trong cơn đau khổ.  Chết chóc, nguy khốn.

Quan Âm đại sĩ. Vị Thanh Tịnh ấy. 

Là nơi nương tựa.  Cho bao chúng sinh. 

Là bậc trọn vẹn.  Phẩm chất hoàn hảo. 

Là mắt từ bi.  Nh́n xuống chúng sinh. 

Là biển dồn lại.  Vô lượng phước đức. 

Vị đại sĩ ấy.  Đáng kính đáng lạy. (c)

 

    Bấy giờ Bồ Tát Tŕ Địa liền đứng dậy từ chỗ

 

 

ḿnh ngồi, bước tới trước Đức Thế Tôn mà thưa, bạch Đức Thế Tôn, người nào được nghe phẩm nói về Quan Âm đại sĩ - về diệu dụng tự tại, về thần lực biến thể một cách toàn diện, th́ biết công đức người ấy đă có không ít.

 

    Khi Đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm nói về vị toàn diện này, trong các chúng có tám vạn bốn ngàn người cùng phát tâm tuệ giác vô thượng là tâm tuyệt bậc mà đồng bậc. (cc)

 

*

 

MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN CỦA

 ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

(Thỉnh một tiếng chuông sau mỗi câu và lễ một lạy)

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, Tự

Tại Viên Thông, nguyện lớn cứu đời.

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, một ḷng cứu độ, giông băo biển khơi.

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, trong cơi u minh, lắng nghe tiếng khổ.

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, hàng phục ma quân, giải trừ ách nạn.

 

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, tịnh b́nh dương liễu, rưới tắt sân si.

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, từ bi, hỷ xả, b́nh đẳng muôn loài. 

   

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, cứu giúp chúng sanh, thoát khỏi đường ác.

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, giải thoát tội nhân, oan ức gông xiềng. 

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, thuyền từ biển khổ, cứu độ muôn loài.

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, tràng phan, bảo cái, tiếp dẫn Tây Phương.

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, quê hương Tịnh Độ, Phật Đà thọ kư.   

 

Nhất tâm đảnh lễ, Quan Âm Như Lai, tinh tấn đoan nghiêm, mười hai đại nguyện.

*

 

 

 KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh, hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử. Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không
CẦU AN                                                                           

 

chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ:

    Nam mô tam măn đà, mẫu đà nẫm.  A bát ra để, hạ đa xá, ta nản nẫm.  Đát điệt tha.  Án, khư khư, khư hê, khư hê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ ta phạ ha. (3 lần) (c)

 

PHỤC NGUYỆN

(Chủ lễ):

    Nam mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn CẦU AN                                                                           

 

Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Tác Đại Chứng Minh. (c)

    Hôm nay, đệ tử chúng con, nhất tâm chí thành, tŕ tụng Kinh Chú, xưng tán hồng danh Chư Phật Bồ Tát.  Ngưỡng nguyện hồng ân Tam Bảo từ bi gia hộ cho Phật tử ..... đương đời phiền năo dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bệnh b́nh an, thân tâm thường lạc, gia đ́nh thịnh đạt, quyến thuộc khương ninh, sự nghiệp vững bền, cháu con hiếu thuận.

    Phổ nguyện âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, đồng thành Phật đạo.

 

(Đồng niệm):  Nam Mô A Di Đà Phật. (c)

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng. (c)

                                                        (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

 

 

HỒI HƯỚNG

Tŕ tụng kinh thâm diệu

 

 

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (c)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền năo xin nguyện đoạn

Quả Phật xin chứng nên. (c)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Phật và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (c)

Nguyện dứt hết phiền năo

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

 

*

 

 

 

 

 

NGHI THỨC

CẦU SIÊU 

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

- Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:

   Án lam tóa ha. (3 lần)

- Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

   Án ta phạ, bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

 

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

(Thắp hương niệm bài cúng hương)

Nguyện đem ḷng thành kính,

Gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương,

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời sống đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm bồ đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác. (c)

(Cắm hương lên lư)

 

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng,

Ba cơi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài,

Quy y tṛn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. (c)

 

QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (c)

 

ĐẢNH LỄ

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ
CẦU SIÊU                                                                        

 

pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

*

(Khai chuông mơ)

CHÚ ĐẠI BI

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.

                                             (3 lần) (c)

    Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

    Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da.  Nam mô A lị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.  Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả.  Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a lị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

    Nam mô na ra cẩn tŕ hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.  Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng,

 

câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.  Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn tŕ, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha.  Tất đà dạ ta bà ha.  Ma ha tất đà dạ ta bà ha.  Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ, ta bà ha.  Ma ra na ra ta bà ha, tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha.  Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.  Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.  Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ, ta bà ha.  Ma bà rị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. 

    Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da.  Nam mô a lỵ gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. 

    Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà giạ, ta bà ha. (3 lần) (c)

 

THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN:

    Ly bà ly bà đế, Cầu ha cầu ha đế, Đa ra ni đế, Ni ha ra đế, Tỳ lê nễ đế, Ma ha dà đế, Chon lăng càn đế, Ta bà ha. (3 lần) (c)

 

 

Đại từ đại bi thương chúng sanh,

Đại hỷ đại xả cứu muôn loài,

Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm,

Đệ tử chí tâm quy mạng lễ. (c)

 

Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. (c)

 

(Niệm ba lần):

Nam mô Đa Bảo Như Lai.

Nam mô Bảo Thắng Như Lai.

Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai.

Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai.

Nam mô Ly Bố Úy Như Lai.

Nam mô Cam Lộ Vương Như Lai.

Nam mô A Di Đà Như Lai.

Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo.  

                                                                   (c)

 

QUY Y LINH

Hương linh quy y Phật.

Hương linh quy y Pháp.

Hương linh quy y Tăng. 

Hương linh quy y Phật, Đấng phước trí vẹn toàn.

Hương linh quy y Pháp, Đạo thoát ly tham dục.

 

 

Hương linh quy y Tăng, Bậc tu hành cao tột.

Hương linh quy y Phật, Nguyện đời đời kiếp   kiếp, Không quy y thiên, thần, quỷ, vật.

Hương linh quy y Pháp, Nguyện đời đời kiếp      kiếp, Không quy y ngoại đạo tà giáo. 

Hương linh quy y Tăng, Nguyện đời đời kiếp      kiếp, Không quy y tổn hữu ác đảng.

Hương linh đă quy y Phật.

Hương linh đă quy y Pháp.

Hương linh đă quy y Tăng.

Hương linh vốn tạo các vọng nghiệp, Đều do vô thỉ tham, sân, si,  Từ  thân, miệng, ư phát sinh ra, Hương linh thảy đều xin sám hối. (c)

 

(Chủ lễ):

    - Nguyện: Nam mô Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo, tiếp độ, phục vị hương linh văng sanh Cực Lạc Quốc. (c) (Đồng lễ một lạy)

 

    - Nguyện: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát, tiếp độ, phục vị hương linh văng sanh Cực Lạc Quốc.  

                                        (c) (Đồng lễ một lạy)

 

 

    - Nguyện: Nam mô Tây Phương Giáo Chủ Đại Từ  Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát, tiếp độ, phục vị hương linh văng sanh Cực Lạc Quốc. (c) (Đồng lễ một lạy)

 

PHÁT NGUYỆN

Sông ái dài muôn dặm

Biển mê sóng vạn tầm

Cơi luân hồi muốn thoát

Niệm Phật hăy nhất tâm. (c)

Tịnh Độ từ chân tâm

Di Đà nơi tự tánh

Chiếu sáng khắp mười phương

Trong tất cả ba đời

Vẫn không rời hiện cảnh

Con nay xin hướng về

Đức Phật A Di Đà

Giáo chủ cơi Tịnh Độ

Nguồn ánh sáng vô lượng

Gốc thọ mạng vô cùng

Một ḷng xin quán tưởng

Và tŕ niệm hồng danh. (c)

 

Nam mô A Di Đà Phật. (10 lần hay nhiều hơn) (c)

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.(3 lần) (c)

 

 

Nam mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần) (c)

Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

                                                              (3 lần) (c)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

                                                     (3 lần) (c)

 

PHÁT NGUYỆN

Nương tựa A Di Đà

Nơi chân tâm mầu nhiệm

Con dốc ḷng quay về

Duy tŕ nguồn chánh niệm

Con đă nguyền trở lại

Nương tựa A Di Đà

Cúi xin Phật nhiếp thọ

Cơi Tịnh Độ bày ra

Xin lấy đuốc ánh sáng

Soi vào tâm tư con

Xin lấy thuyền thọ mạng

Chuyên chở h́nh hài con

Cho sự sống an lạc

Cho lư tưởng vẹn toàn

Xin Phật luôn bảo hộ

Để tâm không buông lơi

Cho con phá tà kiến

Làm phiền năo rụng rơi

Trong giây phút hiện tại

Có Phật trong cuộc đời

Tịnh Độ đi từng bước

 

 

Vững chăi và thảnh thơi

Hiện tại sống chánh niệm

Tịnh Độ đă thật rồi

Sau này đổi thân khác

Thế nào cũng an vui

Niệm Phật A Di Đà

Được nhất tâm bất loạn

Chín phẩm sen hiện tiền

Tự tha đều thọ dụng

Biết trước giờ mạng chung

Tâm con không nao núng

Thân con không bệnh khổ

Ư con không ngại ngùng.

Di Đà cùng thánh chúng

Tay nâng đóa sen vàng

Có mặt trong giây lát

Cùng lên đường thong dong

Sen nở là thấy Phật

Tịnh Độ là quê hương

Cúi xin Phật chứng giám

Hành tŕ không buông lung. (c)

 

TÁN LỄ TÂY PHƯƠNG

Kính lạy Phương Tây

Cơi Tịnh vui thay

Hoa sen chín phẩm thơm lây

Châu báu hàng cây

Trời thường trỗi nhạc vang dầy.

 

 

A Di Đà Phật

Phóng hào quang lớn!

Cứu độ chúng sanh vô lượng

Điềm lành thay!

Hiện tiền đại chúng ca dương

Nguyện sanh an dưỡng

Hiện tiền đại chúng ca dương

Đồng sanh an dưỡng. (c)

 

KỆ KHUYẾN ĐẠI CHÚNG

Ngày đă dần qua

Mạng sống giảm dần

Như cá thiếu nước

Làm sao an vui

Đại chúng phải nên tinh tấn

Như cứu lửa cháy đầu

Nghĩ đến vô thường

Đừng nên buông thả! (cc)

 

*

KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ

 

không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh, hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử. Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực

 

tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

VĂNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN:

    Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.  A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) (c)

 

PHỤC NGUYỆN

(Chủ Lễ):

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Tác Đại Chứng Minh. (c)

 

    Luân hồi sáu nẻo, dốc ngược đèo ngang, ba cơi mơ màng, sông mê ch́m đắm.  Thảm nỗi oan khiên lắm lúc, hương linh không đủ phước văng sanh.  Nguyện Tam Bảo từ bi, phóng quang tiếp độ.  Xe Tam Thừa lộng lẫy, thuyền Bát Nhă thênh thang.  Nguyện hương linh ....  nay đuợc an lành, nghe kinh kệ siêu sanh Tịnh Độ.  Vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta Bà, sen vàng chín phẩm nở hoa, pháp thân hiện Di Đà thọ kư.

 

 

    Phổ nguyện âm siêu dương thới, pháp giới  

chúng sanh, đồng thành Phật đạo.

 

(Đồng niệm):    Nam Mô A Di Đà Phật. (c)

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng. (c)

                                                        (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh,  thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Cầu siêu pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (c)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền năo xin nguyện đoạn

Quả Phật xin chứng nên. (c)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Phật và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (c)

 

 

Nguyện dứt hết phiền năo

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

 

    *

 

 

NGHI THỨC

CÚNG LINH

 

(Trai chủ dâng hương, lễ bốn lạy)

 

Triệu thỉnh hương linh hăy về đây,

Tiếp nhận hương hoa lễ cúng này.

Lắng nghe Pháp Phật cầu giải thoát,

Cúi xin Bồ Tát thuyết kinh văn. (c)

 

Nam mô Diễn Kinh Văn Bồ Tát Ma Ha Tát. 

                                                              (3 lần) (c)

*

 

KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử: Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính thực là không.  Không chính thực là sắc.  C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không  nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.

 

Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh, hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử. Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ  (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

 

 (Trai chủ dâng trà, lễ hai lạy)

THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN:  Ly bà ly bà đế, Cầu ha cầu ha đế, Đà ra ni đế, Ni ha ra đế, Tỳ lê nễ đế, Ma ha dà đế, Chơn lăng càn đế, Ta bà ha. (c)

  

(Trai chủ dâng cơm, lễ hai lạy)

BIẾN THỰC BIẾN THỦY CHƠN NGÔN:  Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần)

    Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát diệt tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. (3 lần)

    Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần) (c)

 

(Trai chủ dâng trà, lễ hai lạy)

VĂNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHON NGÔN:  Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ   tha.  A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị, Dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha.

                                                          (3 lần) (c)

(Trai chủ dâng trà, lễ hai lạy)

Quy Mạng lễ A Di Đà Phật,

Ở phương Tây thế giới an lành,

Con nay xin phát nguyện văng sanh,

Cúi xin Đức Từ Bi tiếp độ.

 

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ

 

 

Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. (c)

Nam mô A Di Đà Phật. (30 lần) (c)

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

                                                     (3 lần) (c)

Nam mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát.

                                                     (3 lần) (c)

Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. 

                                                     (3 lần) (c)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

                                                              (3 lần) (c)

 

PHỤC NGUYỆN

(Chủ lễ):

Ngưỡng nguyện đức từ phụ A Di Đà từ bi phóng quang tiếp độ hương linh……… pháp danh……. tạ thế ngày……. hưởng thọ…….  Nghe tiếng niệm kinh, tâm thức sáng tỏ, giác ngộ vô thường, thấu rơ nguồn tâm, sanh về cơi tịnh.  Khắp nguyện người sống yên vui, kẻ mất siêu độ, tất cả chúng sanh, thoát ṿng khổ năo, chuyên tâm làm lành, sớm thành Phật đạo.

(Đồng niệm): Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. (CCC)      

 

(Trai chủ lễ tạ bốn lạy)

 

*

 

 

NGHI THỨC

THÍ THỰC

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

Nam mô Diện Nhiên Vương Bồ Tát. (3 lần) (c)

 

Lửa dữ bừng bừng cháy bốn bên

Cô hồn nóng bức khổ triền miên

Cô hồn nếu muốn sinh Tịnh Độ

Hăy lắng nghe đây kệ Phật truyền:

"Nếu ai muốn thấy và muốn hiểu

Chư Phật có mặt trong ba đời

Người ấy phải quán chiếu pháp giới

Tất cả đều do tâm mà thôi." (c)

 

CHÂN NGÔN PHÁ ĐỊA NGỤC:

Án, dà ra đế da ta bà ha. (3 lần) (c)

 

CHÂN NGÔN TRIỆU THỈNH:

Nam mô bộ bộ đế rị dà rị đa ri đát tha nga đa da. (3 lần) (c)

 

CHÂN NGÔN MỞ OAN KẾT:

Án, tam đà ra dà đà ta bà ha. (3 lần) (c)

 

Nam mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm                                    Kinh. (c)

Nam mô Thường trú mười phương Phật. (c)

 

 

Nam mô Thường trú mười phương Pháp. (c) 

Nam mô Thường trú mười phương Tăng. (c)

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (c) 

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (c) 

Nam mô Minh Dương Cứu Khổ Địa Tạng Vương Bồ Tát. (c)

Nam mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả. (c)

 

Quy Y Phật.  Quy Y Pháp.  Quy Y Tăng.

Quy Y Phật, đấng phước trí vẹn toàn.

Quy Y Pháp, đạo thoát ly tham dục.

Quy Y Tăng, bậc tu hành cao tột.

Quy Y Phật trong tâm, xin nguyện cho mọi loài, thể nhận được giác tính, sớm mở ḷng Bồ Đề.

Quy Y Pháp trong tâm, xin nguyện cho mọi loài, nắm vững các pháp môn, cùng tu tập chuyển hóa.

Quy Y Tăng trong tâm, xin nguyện cho mọi loài, xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (cc)

 

BỐN LỜI NGUYỆN

Phật tử đă tạo ra nghiệp xấu

Cũng v́ tâm niệm tham sân si

Do thân, miệng, ư phát sinh ra

Tất cả Phật tử đều sám hối. (c)

 

 

Mọi loài đă tạo ra nghiệp xấu

Cũng v́ tâm niệm tham sân si

Do thân, miệng, ư phát sinh ra

Tất cả mọi loài đều sám hối. (c)

 

Cô hồn đă tạo ra nghiệp xấu

Cũng v́ tâm niệm tham sân si

Do thân, miệng, ư phát sinh ra

Tất cả cô hồn đều sám hối. (c)

 

Chúng sanh vô biên thề nguyện độ

Phiền năo vô tận thề nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thề nguyện học

Phật đạo vô thượng thề nguyện thành. (c)

 

Tự tánh chúng sanh thề nguyện độ

Tự tánh phiền năo thề nguyện đoạn

Tự tánh pháp môn thề nguyện học

Tự tánh Phật đạo thề nguyện thành. (cc)

 

CHÂN NGÔN DIỆT ĐỊNH NGHIỆP:

Án, bát ra mạt lân đà nảnh ta bà ha. (3 lần)(c)  

 

CHÂN NGÔN DIỆT NGHIỆP CHUỚNG:

Án, a lỗ lặc kế ta bà ha. (3 lần) (c)

 

CHÂN NGÔN MỞ RỘNG YẾT HẦU:

Án, bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát tha nga đa da.

                                                             (3 lần) (c)

 

 

CHÂN NGÔN DIỆT TAM MUỘI GIA GIỚI:

Án, tam muội da tát đỏa phạn. (3 lần) (c)

 

CHÂN NGÔN BIẾN THỰC:

Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế.  Án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần)(c)

 

CHÂN NGÔN BIẾN THỦY:

Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát diệt tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. (3 lần) (c)

 

CHÂN NGÔN NHẤT TỰ THỦY LUÂN:

Án noan noan noan noan noan. (3 lần) (c)

 

CHÂN NGÔN BIỂN SỮA:

Nam mô tam măn đa một đà nẫm, án noan.

                                                    (3 lần) (c)

 

CÚNG DƯỜNG

Nam mô Đa Bảo Như Lai

Nam mô Bảo Thắng Như Lai

Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai

Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai

Nam mô Ly Bố Úy Như Lai

Nam mô Cam Lộ Vương Như Lai

Nam mô A Di Đà Như Lai. (c)

 

 

 

THẦN CHÚ GIA TR̀ THỨC ĂN TỊNH:

Cúng khắp mười phương chúng Phật tử

Nguyện đều no đủ bỏ xan tham

Mau thoát u minh sinh Tịnh Độ

Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề

Cứu cánh sẽ thành đạo vô thượng

Công đức vô biên đến vị lai

Tất cả Phật tử đồng pháp thực. (c)

 

THẦN CHÚ GIA TR̀ THỨC ĂN PHÁP:

Cúng khắp mười phương cả mọi loài

Nguyện đều no đủ bỏ xan tham

Mau thoát u minh sinh Tịnh Độ

Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề

Cứu cánh sẽ thành đạo vô thượng

Công đức vô biên đến vị lai

Tất cả mọi loài đồng pháp thực. (c)

 

THẦN CHÚ GIA TR̀ NUỚC CAM LỘ:

Cúng khắp mười phương chúng cô hồn

Nguyện đều no đủ bỏ xan tham

Mau thoát u minh sinh Tịnh Độ

Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề

Cứu cánh sẽ thành đạo vô thượng

Công đức vô biên đến vị lai

Tất cả cô hồn đồng pháp thực. (c)

 

Này các vị Phật tử

Tôi nay xin dâng cúng

 

 

Thức ăn biến mười phương

Phật tử đều tiếp nhận

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng về tất cả

Phật tử và chúng tôi

Đều cùng thành Phật đạo. (c)

 

Này tất cả mọi loài

Tôi nay xin dâng cúng

Thức ăn biến mười phương

Mọi loài đều tiếp nhận

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng về tất cả

Mọi loài và chúng tôi

Đều cùng thành Phật đạo. (c)

 

Này các chúng cô hồn

Tôi nay xin dâng cúng

Thức ăn biến mười phương

Cô hồn đều tiếp nhận

Nguyện đem công đức này

Hồi hướng về tất cả

Cô hồn và chúng tôi

Đều cùng thành Phật đạo. (c)

 

CHÂN NGÔN THÍ VÔ GIÀ THỰC:

Án mục lực lăng ta bà ha. (3 lần) (c)

 

 

 

CHÂN NGÔN PHỔ CÚNG DƯỜNG:

Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (3 lần) (c)

 

KỆ CÚNG DƯỜNG

Phụng hiến cam lồ vị

Phân lượng như thái hư

Xin mọi loài đạt nguyện

Về nương bóng Đại Từ. (c)

 

Nam mô Phổ Cúng Dường Bồ Tát. (3 lần) (c)

 

Nguyện ngày an lành đêm an lành

Đêm ngày sáu thời thường an lành

Tất cả các thời đều an lành

Xin nguyện từ bi thường gia hộ

 

Nguyện cho bốn loài về cơi Tịnh

Nguyện cho ba cơi sanh ao sen

Nguyện cho ngạ quỷ chứng ngôi hiền

Nguyện cho các loài thành Phật đạo.

 

Sông ái dài muôn dặm

Biển mê sóng vạn tầm

Cơi luân hồi muốn thoát

Niệm Phật hăy nhất tâm.

Tịnh Độ vốn sẵn nơi chân tâm

Di Đà hiện ra từ tự tánh

Chiếu sáng ba đời khắp mười phương

 

 

Mà vẫn không rời nơi hiện cảnh

Con xin hướng về Phật A Di Đà

Giáo chủ cơi Tịnh Độ

Nguồn ánh sáng vô lượng

Gốc thọ mạng vô cùng

Một ḷng xin quán tưởng

Và tŕ niệm hồng danh. (c)

 

Nam mô A Di Đà Phật. (10 lần hay nhiều hơn) (c)

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)(c) 

Nam mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần) (c)

Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.                                                                 

                                                              (3 lần) (c)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

                                                     (3 lần) (c)

 

PHÁT NGUYỆN

Nương tựa A Di Đà

Nơi chân tâm mầu nhiệm

Con dốc ḷng quay về

Duy tŕ nguồn chánh niệm

Con đă nguyền trở lại

Nương tựa A Di Đà

Cúi xin Phật nhiếp thọ

Cơi Tịnh Độ bày ra

Xin lấy đuốc ánh sáng

Soi vào tâm tư con

Xin lấy thuyền thọ mạng

Chuyên chở h́nh hài con

 

Cho sự sống an lạc

Cho lư tưởng vẹn toàn

Xin Phật luôn bảo hộ

Để tâm không buông lơi

Cho con phá tà kiến

Làm phiền năo rụng rơi

Trong giây phút hiện tại

Có Phật trong cuộc đời

Tịnh Độ đi từng bước

Vững chăi và thảnh thơi

Hiện tại sống chánh niệm

Tịnh Độ đă thật rồi

Sau này đổi thân khác

Thế nào cũng an vui

Niệm Phật A Di Đà

Được nhất tâm bất loạn

Chín phẩm sen hiện tiền

Tự tha đều thọ dụng

Biết trước giờ mạng chung

Tâm con không nao núng

Thân con không bệnh khổ

Ư con không ngại ngùng.

Di Đà cùng thánh chúng

Tay nâng đóa sen vàng

Có mặt trong giây lát

Cùng lên đường thong dong

Sen nở là thấy Phật

Tịnh Độ là quê hương

 

 

Cúi xin Phật chứng giám

Hành tŕ không buông lung. (c)

 

*

KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh, hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử. Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

 

 

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

VĂNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN:

    Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.  A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) (c)

 

*

 

 

TÁN LỄ TÂY PHƯƠNG

Kính lạy Phương Tây

Cơi Tịnh vui thay

Hoa sen chín phẩm thơm lây

Châu báu hàng cây

Trời thường trỗi nhạc vang dầy.

A Di Đà Phật

Phóng hào quang lớn!

Cứu độ chúng sanh vô lượng

Điềm lành thay!

Hiện tiền đại chúng ca dương

Nguyện sanh an dưỡng

Hiện tiền đại chúng ca dương

Đồng sanh an dưỡng. (c)

 

KỆ KHUYẾN ĐẠI CHÚNG

Ngày đă dần qua

Mạng sống giảm dần

Như cá thiếu nước

Làm sao an vui

Đại chúng phải nên tinh tấn

Như cứu lửa cháy đầu

Nghĩ đến vô thường

Đừng nên buông thả! (cc)

 

*

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng.  (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh,

thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Thí thực pháp thâm diệu

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (c)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền năo xin nguyện đoạn

Quả Phật xin chứng nên. (c)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Phật và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (c)

Nguyện dứt hết phiền năo

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành

 

 

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

 

*

 

 

NGHI THỨC

CÚNG QUÁ ĐƯỜNG

 

(Đại chúng nghe ba tiếng khánh, tay trái làm kiềng ba chân nâng bát cơm lên trên trán, tay mặt bắt ấn tam muội)

 

- Cúng dường:

Cúng dường Thanh tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá

                                                     Na Phật.

Viên Măn Báo Thân Lô Xá Na Phật.

Thiên Bá Ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật.

Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.

Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật.

Thập Phương Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật.

Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát. Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật.

 

    Hương vị của đức hạnh, con cúng dường chư Phật, cùng chư thánh hiền Tăng, các loài trong Pháp giới, tất cả đều cúng dường.  Trong khi dùng cơm, xin nguyện chúng sanh, ăn thức thiền vị, an vui thanh tịnh.

(Để bát xuống)

 

- Xuất Sanh: (Vị chứng trai)  Với Pháp lực không lường.  Ḷng từ bi vô tận.  Bảy hạt

 

biến mười phương.  Cúng dường khắp tất cả. 

Án độ lợi ích tóa ha. (3 lần)

 

(Đồng Niệm):

Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế.  Án tam bạt ra tam bạt ra hồng. (3 lần)

 

Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha.  Án tô rô, tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô tà bà ha.  (3 lần)

   

Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng.  (3 lần)

 

- Tống thực: (Thị Giả)  Đại bàng chim cánh vàng.  Quỷ thần nơi hoang dă.  Các loài quỷ La Sát.  Hưởng pháp vị Cam Lồ.

Án mục đế tóa ha. (7 lần)

 

- Xướng Tăng bạt: (Vị chứng trai)  Phật dạy chúng tăng.  Khi ăn quán chiếu.  Năm điều quán niệm.  Đừng để loạn tâm.  Bàn chuyện thế nhân.  Tạo thêm nghiệp chướng.  Tín thí khó tiêu.  Đại chúng nghe khánh.  Khởi tâm chánh niệm:

(Đồng niệm)      Nam Mô A Di Đà Phật.

 

- Tŕ bát: (Hai tay bưng bát cơm đưa lên trên trán và thầm đọc)  Hai tay bưng bát cơm đầy,  Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần, Cầu cho

 

tất cả chúng sanh, Trọn thành Phật đạo, Thiên nhân cúng dường.

Án chỉ rị phạ nhật ra hồng phấn tra. (3 lần)

 

(Gắp ba miếng cơm rồi thầm nguyện)

1. Nguyện bỏ các điều ác  2. Nguyện làm các việc lành  3. Nguyện độ các chúng sanh.

 

- Năm pháp quán: (Đọc theo vị chứng trai)

1. Con xin biết ơn người đă phát tâm cúng dường, sửa soạn những thức ăn này.

2. Con nguyện nổ lực tu học, trao dồi giới hạnh để xứng đáng thọ dụng những thức ăn này.

3. Trong khi ăn, con nguyện từ bỏ ḷng tham dục, tham ăn.

4. Con quán chiếu những thức ăn này như những vị thuốc, để cho thân thể con khỏi bệnh.

5. Con nuôi dưỡng chánh niệm, chỉ v́ để thành tựu đạo nghiệp giải thoát giác ngộ con thọ dụng những thức ăn này.

 

 - Kết trai: Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đề, cu chi nẫm, đát điệt tha.  Án chiếc lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. (7 lần)

 

Người phát tâm cúng dường.  Phước đức không thể lường.  Hôm nay vui bố thí.  Mai

 

phước lạc không cùng.  Khi dùng cơm xong.   Xin nguyện chúng sanh.  Trong các hành động.  Đều nương Phật Pháp.

 

- Chúc nguyện: Chiếc áo lành do cô dệt vải.  Chén cơm ngon nhờ bác nông phu.  Người nào thọ dụng để tu.  Nhớ ơn chức nữ, nông phu mỗi ngày.  Nguyện cho: Đàn na thí chủ.  Phước lạc hiện tiền.  Đầy đủ phước duyên.  Chứng nên Phật quả.

 

(Đồng niệm):   Nam Mô A Di Đà Phật

 

*

    Thường nhật, mỗi khi ăn cơm sáng trưa chiều, Phật tử nên đọc bài cúng dường: "Đệ tử cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng và cúng dường tất cả chúng sanh".  Sau đó đọc ba lời nguyện và năm điều quán.

 

*

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NGHI THỨC

KHÁNH ĐẢN

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ.

 

DÂNG HƯƠNG

Xin cho khói trầm thơm

Kết thành mây năm sắc

Dâng lên khắp mười phương

Cúng dường vô lượng Phật,

Vô lượng chư Bồ Tát

Cùng các thánh hiền tăng

Nơi pháp giới dung thông

Kết đài sen rực rỡ

Nguyện làm kẻ đồng hành

Trên con đường giác ngộ

Xin mọi loài chúng sanh

Từ bỏ cơi lăng quên

Theo đường giới định tuệ

Quay về trong tỉnh thức.

 

Chúng con kính dâng hương lên Phật và chư vị Bồ Tát. (c)

 

 

TÁN DƯƠNG

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quư nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền năo sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                     (3 lần) (c)

 

CHÚC TÁN

Bậc Đại Giác viên măn xuất hiện nơi cơi Ta Bà

Tấm ḷng ôm trọn cả thái hư,

Trí giác soi cùng đại thiên thế giới,

Xin rủ ḷng từ, xót thương minh chứng: (c)

 

Thế Tôn dung mạo như vầng nguyệt,

Lại như mặt nhật phóng quang minh,

Hào quang trí tuệ chiếu muôn phương,

Hỷ xả từ bi đều thấm nhuận. (c)

 

Thế Tôn đức tướng vô tận không thể tán

 

dương,

Chúng con ở đạo tràng … (Pháp Nguyên),

Nhân ngày Phật đản,

Tập họp bốn chúng,

Đi lên bảo điện,

Thiền tọa công phu,

Phúng tụng kinh văn,

Xưng dương hạnh đức của Phật,

Tŕ niệm hồng danh,

Xin nguyện chúc lên: (c)

 

Nguyện chúc đạo Phật sáng thêm,

Pháp môn càng ngày càng tỏ rạng,

Gió ḥa mưa thuận,

Đất nước b́nh an,

Khắp nơi thành thị nông thôn,

Mọi giới biết noi theo đường tu tập,

Thiên nhiên được bảo vệ an lành,

Xă hội hưởng tự do b́nh đẳng.

 

Lại nguyện:

Xin thổi ngọn gió từ bi, thanh lương vào thế gian nóng bức,

Đem mặt trời trí tuệ rạng rỡ về ngự giữa không gian âm u,

Khắp nơi đạo giải thoát đuợc tuyên dương,

Mua pháp thấm nhuần chúng sanh đều lợi lạc

Hiện tiền đại chúng,

Tu tập tinh chuyên,

 

 

Biết thương yêu nhau,

Chuyển hóa nội tâm,

Trang nghiêm tịnh độ,

Nguyện noi gương Phổ Hiền và Quán Tự Tại,

Cùng các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát,

Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật. (cc)

 

KHAI THỊ

    Hôm nay đại chúng tập họp để mừng ngày Khánh đản và làm lễ tắm Phật sơ sinh.  Đại chúng lắng ḷng nghe đây:

   

   Cách đây trên 2600 năm, tại thành Ca Tỳ La Vệ, giữa loài người chúng ta và trên trái đất xinh đẹp này, một đức Phật đă ra đời. Đó là đức Thích Ca Mâu Ni.   Ngài là một con người như chúng ta, nhưng Ngài đă đưa sự tỉnh thức của Ngài lên đến mức độ cao nhất.  Ngài đă trở thành một bậc tỉnh thức toàn vẹn.  Ngài là một con người như chúng ta, nhưng Ngài đă phát huy khả năng hiểu biết và thương yêu của Ngài tới mức tột cùng.  Ngài là đóa hoa đẹp nhất và quư nhất trong vườn hoa nhân loại.  Ngài là một đóa hoa Ưu Bát Đa La, mỗi ba ngàn năm mới nở một lần. (c)

 

*

 

 

LẠY PHẬT

 

(Chủ lễ xướng đến “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” th́ nhịp khánh hướng dẫn Phật tử đồng ḥa “Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật“ và lễ một lạy)

 

1) Chí tâm đảnh lễ:

A tỳ ngục tốt, mới phát ḷng lành,

Nhiều kiếp tu hành, nhơn viên quả măn.

(Đồng ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

2) Chí tâm đảnh lễ:

Một đời Bổ xứ, hiện ở Suất Đà,

Hóa độ Ta Bà, giáng sanh trần thế.

(Đồng ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

3) Chí tâm đảnh lễ:

Từ trời Đâu Suất, ứng mộng Ma Gia,

Cỡi voi sáu ngà, vào trong ḷng mẹ.

(Đồng ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

4) Chí tâm đảnh lễ:

Dưới cây Vô Ưu, đản sanh thị hiện,

Chín rồng phun nước, bảy bước xưng tôn.

(Đồng Ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

5) Chí tâm đảnh lễ:

Hiện hưởng dục lạc, chán cảnh vô thường,

Dạo chơi bốn phương, thương đời đau khổ.

(Đồng ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

 

6) Chí tâm đảnh lễ:

Nửa đem vượt thành, xuất gia t́m đạo,

Tóc xanh cắt bỏ, núi Tuyết tu hành.

(Đồng ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

7) Chí tâm đảnh lễ:

Dưới cây Đạo thọ, hàng phục ma quân,

Thấy ánh sao Mai, thành Bồ đề đạo.

(Đồng ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

8) Chí tâm đảnh lễ:

Bốn mươi chín năm, độ sanh thuyết pháp

Ba thừa giáo hóa, hạnh nguyện viên thành.

(Đồng ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

9) Chí tâm đảnh lễ:

Dưới cây Ta La, Niết Bàn thị hiện,

Để lại Xá lợi, phước khắp trần gian.

(Đồng ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

10) Chí tâm đảnh lễ:

Hiện tọa đạo tràng, Ta Bà giáo chủ,

Đạo sư ba cơi, Từ phụ bốn loài.

(Đồng ḥa): Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

(Đồng tụng):

BÀI TỤNG

Đệ tử hôm nay, Gặp ngày Thánh đản,

Một dạ vui mừng, Cúi đầu đảnh lễ.

 

 

Thập phương Tam thế, Điều ngự Như Lai,

Cùng Thánh Hiền Tăng.

Chúng con cùng pháp giới chúng sanh,

Bởi thiếu nhơn lành, Thảy đều sa đọa,

Tham sân chấp ngă, Quên hẳn đường về,

T́nh ái si mê, Tù trong lục đạo,

Trăm đây phiền năo, Nghiệp báo không cùng,

Nay nhờ Phật Tổ Năng nhơn, Dủ ḷng lân mẫn

Không nỡ sinh linh thiếu phước,

Nặng kiếp luân hồi,  Đêm dày tăm tối,

Đuốc tuệ Sáng soi, Nguyện cứu muôn loài.

Pháp dùng phương tiện, Ta bà thị hiện,

Thích chủng thọ sinh,

Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành,

Vua Tịnh Phạn phước sinh con thảo,

Ba mươi hai tướng hảo,

Vừa mười chín tuổi xuân,

Ḷng từ ái cực thuần, Chí xuất trần quá mạnh

Ngai vàng quyết tránh, T́m lối xuất gia,

Sáu năm khổ hạnh rừng già,

Bảy thất nghiêm tinh thiền tọa,

Chứng thành đạo quả, Hàng phục ma binh,

Ba cơi đều dậy tiếng hoan nghênh,

Muôn vật thảy nhờ ơn tế độ.

 

Chúng con nguyện:

Dứt bỏ dục t́nh gây khổ,

Nguyện học đức tánh quang minh,

 

 

Cúi xin Phật Tổ giám thành. Từ bi gia hộ:

Chúng con cùng pháp giới chúng sanh,

Chóng thành đạo quả.

 

(3 lần):

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.

Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát.

                                                             (c)

PHÁP NGỮ

Xưng tán đức Thế Tôn

Bậc vô thượng năng nhân

Từng trải qua vô lượng kiếp tu nhân

Rồi từ cung Đâu Xuất giáng thần

Giă từ ngôi vị quốc vương

Ngồi gốc Bồ Đề đại phá Ma quân

Một sáng sao mai vừa mọc

Đạo lớn viên thành

Đại chuyển Pháp luân. (c)

 

Muôn loài cùng quy hướng nhất tâm

Đạo vô sinh sẽ chứng

Muôn loài cùng quy hướng nhất tâm

Đạo vô sinh nguyện chứng. (cc)

 

*

 

 

KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh, hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử. Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa

 

mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

KỆ TẮM PHẬT

Hôm nay được tắm đức Như Lai

Trí tuệ quang minh công đức đầy

Chúng sinh ba cơi đang ch́m đắm

Đồng chứng pháp thân của Như Lai. (c)

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

(DÂNG LỤC CÚNG:

    Các em thiếu niên tuần tự chậm răi dâng sáu thức cúng Phật tượng trưng cho Lục Độ Ba La Mât: hương, đèn, hoa, quả, trà, bánh; trong tiếng đại nhạc.

    Sau đó các Phật tử tuần tự lên tắm Phật sơ sinh trong tiếng niệm thong thả và liên tục.)

 

 

PHỤC NGUYỆN

(Chủ lễ):

Đạo thọ ngh́n thu đứng vững.  Đàm hoa muôn thuở thắm tươi.  Sông Ni Liên vẫn đợi người, Núi Tuyết cây c̣n chờ Thánh. 

 

Chúng con nghĩ:

Người không bắt đầu từ non khổ hạnh, Cũng chẳng chấm dứt tại nuớc Thi La.  Do đó:

Nguyện Pháp luân tái chuyển Ta Bà, Mong Phật nhật trùng quang pháp giới.  Mọi người trông đợi, Một dạ nguyện cầu, Ngơ đền ơn sâu, Hầu phụng thờ đạo cả.

 

Chúng con cũng nguyện:

Núi rừng biển cả, Gió thuận mưa ḥa, An cư lạc nghiệp mọi nhà, Trấn tịnh thái b́nh cả nước.  Tăng Ni hưởng phước, Thiện tín triêm ân.

(Đồng ḥa):   Nam Mô A Di Đà Phật.

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng. (c)

                                                        (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh,

 

thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                             (lễ 1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Tắm Phật tâm thanh tịnh

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (c)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền năo xin nguyện đoạn

Quả Phật xin chứng nên. (c)

Nguyện sinh về Tịnh Độ

Sen nở thấy vô sinh

Chư Phật và Bồ Tát

Là những bạn đồng hành. (c)

Nguyện dứt hết phiền năo

Cho trí tuệ phát sinh

Cho tội chướng tiêu tán

Quả giác ngộ viên thành

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

 

*

 

 

 

 

NGHI THỨC

VU LAN

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

Đại chúng đứng chắp tay trước bàn thờ. Vị chủ lễ nâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương, trong khi mọi nguời quán tưởng theo lời kệ:

 

DÂNG HƯƠNG

Xin cho khói trầm thơm

Kết thành mây năm sắc

Dâng lên khắp mười phương

Cúng dường vô lượng Phật

Vô lượng chư Bồ Tát

Cùng các thánh hiền tăng

Nơi pháp giới dung thông

Kết đài sen rực rỡ

Nguyện làm kẻ đồng hành

Trên con đường giác ngộ

Xin mọi loài chúng sanh

Từ bỏ cơi lăng quên

Theo đường giới định tuệ

Quay về trong tỉnh thức.

 

Chúng con kính dâng hương lên Phật và chư vị Bồ Tát. (c)

 

 

 

TÁN DƯƠNG

Xinh tốt như hoa sen

Rạng ngời như Bắc Đẩu

Xin quay về nương náu

Bậc thầy của nhân, thiên.

Sen quư nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí tuệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều ngự

Trăm ngàn phiền năo sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                     (3 lần) (c)

 

CHÚC TÁN

Bậc Đại Giác viên măn xuất hiện nơi cơi Ta Bà

Tấm ḷng ôm trọn cả thái hư,

Trí giác soi cùng đại thiên thế giới,

Xin rủ ḷng từ, xót thương minh chứng: (c)

 

Thế Tôn dung mạo như vầng nguyệt,

Lại như mặt nhật phóng quang minh,

Hào quang trí tuệ chiếu muôn phương,

Hỷ xả từ bi đều thấm nhuận. (c)

 

Thế Tôn đức tướng vô tận không thể tán

 

dương,

Chúng con ở đạo tràng … (Pháp Nguyên),

Nhân ngày Vu Lan,

Tập họp bốn chúng,

Đi lên bảo điện,

Thiền tọa công phu,

Phúng tụng kinh văn,

Xưng dương hạnh đức của Phật,

Tŕ niệm hồng danh,

Xin nguyện chúc lên: (c)

 

Nguyện chúc đạo Phật sáng thêm,

Pháp môn càng ngày càng tỏ rạng,

Gió ḥa mưa thuận,

Đất nước b́nh an,

Khắp nơi thành thị nông thôn,

Mọi giới biết noi theo đường tu tập,

Thiên nhiên được bảo vệ an lành,

Xă hội hưởng tự do b́nh đẳng.

 

Lại nguyện:

Xin thổi ngọn gió từ bi, thanh lương vào thế gian nóng bức,

Đem mặt trời trí tuệ rạng rỡ về ngự giữa không gian âm u,

Khắp nơi đạo giải thoát đuợc tuyên dương,

Mua pháp thấm nhuần chúng sanh đều lợi lạc

Hiện tiền đại chúng,

Tu tập tinh chuyên,

 

 

Biết thương yêu nhau,

Chuyển hóa nội tâm,

Trang nghiêm tịnh độ,

Nguyện noi gương Phổ Hiền và Quán Tự Tại,

Cùng các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát,

Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật. (cc)

 

KHAI THỊ

    Hôm nay chúng con quy tụ về … (Chùa Pháp Nguyên) để cử hành đại lễ Vu Lan báo hiếu.  Xin đại chúng hăy lắng ḷng nghe: Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.  Công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ cao sâu muôn trùng, bổn phận làm con phải hết ḷng báo đáp.  Chúng con cầu nguyện Tam Bảo từ bi gia hộ cho cha mẹ chúng con, c̣n tại thế, thân tâm an lạc phát nguyện tu tŕ.  Đă qua đời, ác đạo xa ĺa, siêu sanh tịnh độ.

 

    Chúng con ư thức rằng: Cây có cội nước có nguồn, chúng con hướng về tổ tiên để cảm nhận trùng trùng ân nghĩa.  Ông bà tổ tiên là cội nguồn huyết thống của chúng con đả gây  dựng nên vinh quang của ḍng họ.  Chúng con nguyện sẽ tiếp nối công tŕnh của liệt quư vị.  Chúng con nguyện tiếp nhận gia tài văn hóa và tâm linh mà liệt quư vị đă trao truyền,

 

nguyện nắm giữ và phát triển không ngừng gia tài ấy.  Chúng con cũng nguyện chuyển hóa những nội kết khổ đau và mở ra cho thế hệ tương lai cánh cửa của một đời sống thoải mái nhẹ nhàng, trong đó con người không quá bận rộn, có nhiều th́ giờ để chăm sóc cho nhau và đem lại cho nhau hạnh phúc.

 

    Chúng con cũng hướng về cội nguồn tâm linh để tri ân Tam Bảo, các bậc thầy tổ đă đem đạo lư giác ngộ giải thoát của chư Phật trao truyền cho chúng con.  Chúng con đă lớn lên trong đạo lư văn hóa này.  Đây là nền tảng đạo đức luân lư của đời sống nội tâm của chúng con.  Cội nguồn tâm linh này đă giúp chúng con vượt qua được những khổ đau để t́m thấy được an lạc hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại.

 

    Ngưỡng nguyện hồng ân Tam Bảo, đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, cùng các vị Bồ Tát, tịnh đức chúng Tăng, từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ cha mẹ nhiều đời của đệ tử chúng con cùng tất cả chúng sanh sớm rơ đường lành thoát ṿng mê muội ra khỏi u đồ siêu sanh Lạc quốc.  Ngưỡng mong oai đức vô cùng xót thương tiếp độ. (c)

 

 

ĐẢNH LỄ

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

CHÚ ĐẠI BI

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.

                                             (3 lần) (c)

    Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

    Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da.  Nam mô A lị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.  Án tát bàn ra phạt duệ, số đát

 

 

na đát tả.  Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a lị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

    Nam mô na ra cẩn tŕ hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.  Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.  Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn tŕ, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha.  Tất đà dạ ta bà ha.  Ma ha tất đà dạ ta bà ha.  Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ, ta bà ha.  Ma ra na ra ta bà ha, tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha.  Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.  Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.  Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ, ta bà ha.  Ma bà rị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. 

    Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da.  Nam mô a lỵ gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

 

 

    Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà giạ, ta bà ha. (3 lần) (c)

 

*

 

SÁM VU-LAN

Đệ tử chúng con.  Vâng lời Phật dạy.

Ngày rằm tháng bảy.  Gặp Hội Vu Lan.

Phạm Vũ huy hoàng.  Đốt hương đảnh lễ.

Mười phương Tam thế, Phật, Pháp, Thánh, Hiền.                                                            Noi gương đức Mục Kiền Liên.

Nguyện làm con thảo.

Ḷng càng áo năo.  Nhớ nghĩa thân sanh.

Con đến trưởng thành.  Mẹ dày gian khổ.

Ba năm nhủ bộ.  Chín tháng cưu mang.

Không ngớt lo toan.  Quên ăn bỏ ngủ.

Ấm no đầy đủ.  Cậy có công cha.

Chẳng quản yếu già.  Sanh nhai lam lủ.

Quyết cùng hoàn vũ.  Phấn đấu nuôi con.

Giáo dục vuông tṛn.  Đem đường học đạo.

Đệ tử ơn sâu chưa báo.  Hổ phận kém hèn.

Giờ này quỳ trước đài sen. 

Chí thành cung kính.   Đạo tràng thanh tịnh.

Tăng bảo trang nghiêm.  Hoặc thừa tự tứ.  Hoặc hiện tham thiền.  Đầy đủ thiện duyên.  Dủ ḷng lân mẫn.  Hộ niệm cho.

Bảy kiếp cha mẹ chúng con. 

Đượm nhuần mưa Pháp.  C̣n tại thế.

 

 

Thân tâm an ổn.  Phát nguyện tu tŕ.

Đă qua đời.  Ác đạo xa ĺa. 

Chóng thành Phật quả. 

Ngữa trông các đức Như Lai,

Khắp cơi hư không.  Từ bi gia hộ.

 

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.

                                                    (3 lần) (c)

 

*

KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh, hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có

 

mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử. Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

VĂNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN:

    Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.  A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca

 

lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) (c)

 

PHỤC NGUYỆN

(Chủ lễ):

Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.

 

Bốn mươi tám đại nguyện, tiếp chúng đầu tiên.  Ngàn vạn ức hóa thân, độ sanh trước hết.  Nhớ lời từ thệ, nguyện tỏ hiếu tâm.  Nay có đệ tử …. cùng Phật tử mười phương, vân tập về … (Chùa Pháp Nguyên).  Tất cả đồng tâm: Khai đàn phụng Phật, Hiến cúng hoa đăng; Phúng tụng kinh văn, Độ vong siêu thoát.  Ngửa mong chư Phật Bồ Tát, Từ bi tiếp độ vong linh Thất Tổ Cửu Huyền, Nội thân ngoại thích.

 

Nhớ lời Phật dạy Mục Liên thuở trước.  Nên, lễ Vu Lan báo hiếu hôm nay.  Mong nhờ chư Tăng chú nguyện, chư hương linh nương nhờ Phật ân, siêu sinh tịnh độ.

 

Lại nguyện Cha mẹ ông bà hiện tại, Phước thọ tăng long; Nội ngoại cháu con các ḍng, An vui hạnh phúc.

 

Đồng nguyện: Núi rừng biển cả, Gió thuận

 

mưa ḥa, An cư lạc nghiệp mọi nhà, Trấn tịnh thái b́nh cả nước. Tăng Ni hưởng phước, Thiện tín triêm ân.

 

(Đồng ḥa):  Nam Mô A Di Đà Phật. (c)

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng.  (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                            (lễ 1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Cầu báo ân sinh dưỡng,

Tạo công đức vô biên

Đệ tử xin hồi hướng

Cho chúng sinh mọi miền. (c)

Pháp môn xin nguyện học

Ân nghĩa xin nguyện đền

Phiền năo xin nguyện đoạn

Quả Phật xin chứng nên. (CCC)

 

* 

 

KINH

 VU LAN BỒN

 

(Nhập chuông hai lần. Thỉnh ba tiếng chuông)

 

NIỆM HƯƠNG

(Thắp đèn đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)

- Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:

   Án lam tóa ha. (3 lần)

- Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:

   Án ta phạ, bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

 

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

(Thắp hương niệm bài cúng hương)

Nguyện đem ḷng thành kính,

Gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương,

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời sống đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm bồ đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác. (c)

(Cắm hương lên lư)

 

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng,

Ba cơi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài,

Quy y tṛn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. (c)

 

QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (c)

 

ĐẢNH LỄ

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ

 

pháp Chư tôn Bồ Tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

-- Chí Tâm Đảnh Lễ: Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (c) (lễ 1 lạy)

 

*

(Khai chuông mơ)

CHÚ ĐẠI BI

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.

                                             (3 lần) (c)

    Thiên thủ thiên nhăn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

    Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da.  Nam mô A lị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.  Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả.  Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a lị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

    Nam mô na ra cẩn tŕ hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.  Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng,

 

câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà la đà la, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.  Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn tŕ, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha.  Tất đà dạ ta bà ha.  Ma ha tất đà dạ ta bà ha.  Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ, ta bà ha.  Ma ra na ra ta bà ha, tất ra tăng a mục khư gia, ta bà ha.  Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.  Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.  Ba đà ma kiết tất đà dạ, ta bà ha.  Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ, ta bà ha.  Ma bà rị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. 

    Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da.  Nam mô a lỵ gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. 

    Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà giạ, ta bà ha. (3 lần) (c)

 

KHAI KINH

Pháp Phật cao siêu mầu nhiệm,

Cơ duyên may được thọ tŕ,

Xin nguyện đi vào biển Tuệ,

Tinh thông giáo nghĩa huyền vi. (c)

 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                     (3 lần) (c)

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.

                                                     (3 lần) (c)

*

 

KINH VU LAN BỒN

 

Ta nghe lời tạc như vầy:

 

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ.  Xá Vệ thành, Kỳ   Thụ viên trung.  Mục Liên mới đặng lục thông.  Muốn cho cha mẹ khỏi ṿng trầm luân.  Công dưỡng dục thâm ân dốc trả.  Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền.  Làm con hiếu hạnh trước tiên.  Bèn dùng huệ nhăn dưới trên kiếm tầm.  Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ.  Không uống ăn tiều tụy h́nh hài.  Mục Liên thấy vậy bi ai.  Biết mẹ đói khát ai hoài t́nh thâm.  Lo phẩm vật đem dâng thân mẫu.  Đặng đỡ ḷng cực khổ bấy lâu.  Thấy cơm mẹ rất lo âu.  Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn.  Ḷng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt.  Sợ chúng ma cướp giựt của bà.  Cơm đưa chưa tới miệng đà.  Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.  Thấy như vậy âu sầu thê thảm.  Mục Kiền Liên bi thảm xót thương.  Mau mau về chốn giảng đường.  Bạch cùng sư phụ tầm phương giải nàn.

 

 

    Phật mới bảo rơ ràng căn cội: “Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.  Dầu ông thần lực nhiệm mầu.  Một ḿnh không thể ai cầu đặng đâu.  Ḷng hiếu thảo của ông dầu lớn.  Tiếng vang đồn khắp đến Cửu Thiên.  Cùng là các bậc Thần kỳ.  Tà ma, ngoại đạo, bốn v́ Thiên vương.  Cộng ba cơi sáu phương tu tập.  Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi.  Muốn cho cứu đuợc mạng người.  Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.  Pháp cứu tế ta toan giảng nói.  Cho mọi người thoát khỏi ách nàn.” 

 

    Bèn kêu Mục thị tới gần.  Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi.  Rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ.  Mười phương Tăng đều dự lễ này.  Phải toan sắm sửa chớ chầy.  Thức ăn trăm món trái cây năm màu.  Lại phải giường nằm nệm lót.  Cùng thau bồn đèn đuốc nhang dầu.  Món ăn tinh sạch báu mầu.  Đựng trong b́nh bát vọng cầu kính dâng.  Chư Đại Đức mười phương thọ thực.  Trong bảy đời sẽ được siêu thăng.  Lại thêm cha mẹ hiện tiền.  Đặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn.  V́ ngày ấy Thánh Tăng đều đủ.  Dầu ở đâu cũng tựu hội về.  Như người thiền định sơn khê.  Tránh điều phiền năo chăm về thiên na.  Hoặc người đặng bốn ṭa đạo quả.

 

Công tu hành nguyện thỏa vô sanh.  Hoặc người thọ hạ kinh hành. Chẳng ham quyền quư ẩn danh lâm ṭng.  Hoặc người đặng lục thông tấn phát.  Và những hạng Duyên giác, Thanh văn.  Hoặc chư Bồ Tát mười phương.  Hiện h́nh làm săi ở gần chúng sanh.  Đều tŕ giới rất thanh rất tịnh. Đạo đức dày chánh định chơn tâm.  Tất cả các bực Thánh, phàm.  Đồng ḷng thọ lănh bát cơm Lục Ḥa.  Người nào có sắm ra vật thực.  Đặng cúng dường Tự Tứ, Tăng thời.  Hiện tiền phụ mẫu của người.  Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ on.  Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi. Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên.  Như c̣n cha mẹ hiện tiền.  Nhờ đó cũng đặng bách niên thọ trường.  Như cha mẹ bảy đời quá văng. Sẽ hóa sanh về cơi Thiên cung.  Người th́ tuấn tú h́nh dung.  Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.  Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng.  Phải tuân theo thể thức sau này.  Trước khi thọ thực đàn trai.  Phải cầu chú nguyện cho người tín gia.  Cầu thất thế mẹ cha thí chủ.  Định tâm thần quán đủ đừng quên.  Cho xong định ư hành thiền.  Mới dùng phẩm vật đan tiền hiến dâng.  Khi thọ dụng nên an vật thực.  Trước Phật đài hoặc tự tháp trung.  Chư Tăng chú nguyện viên dung.  Sau  rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa.

 

 

    Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt.  Mục Liên cùng Bồ Tát chư Tăng.  Đồng nhau tỏ dạ vui mừng.  Mục Liên cũng hết khóc than rầu buồn.  Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy.  Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan.

 

    Mục Liên bạch với Phật rằng: "Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn.  Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo.  Bằng chẳng th́ nạn khổ khó ra.  Như sau đệ tử xuất gia.  Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh.  Độ cha mẹ c̣n đương tại thế.  Hoặc bảy đời có thể đặng không?".

 

    Phật rằng: "Lời hỏi rất thông. Ta vừa muốn nói ông vùng hỏi theo.  Thiện nam tử, Tỳ kheo nam nữ.  Cùng Quốc vương, Thái tử, Đại thần.  Tam công, Tể tướng, bách quan.  Cùng hàng lê thứ vạn dân cơi trần.  Như chí muốn đền ơn cha mẹ.  Hiện tại cùng thất thế t́nh thâm.  Đến rằm tháng Bảy mỗi năm.  Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về.  Chính ngày ấy Phật Đà hoan hỷ. Phải sắm sanh đủ vị cơm canh.  Đựng trong b́nh bát tinh anh.  Chờ giờ Tự Tứ chúng Tăng cúng dường.  Đặng cầu nguyện song đường trường thọ.  Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi.  Cùng cầu thất thế đồng th́.  Ĺa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên.  Đặng hưởng phước nhơn duyên vui đẹp.  Lại xa ĺa nạn khổ cực thân.  Môn sanh Phật tử ân cần.

 

Hạnh tu hiếu hạnh phải cần phải chuyên.  Thường cầu nguyện thung huyên an hảo.  Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sinh.  Ngày rằm tháng Bảy mỗi năm.  V́ ḷng hiếu thảo ân thâm phải đền.  Lễ cứu tế chí thành sắp đặt.  Ngơ cúng dường chư Phật, chư Tăng.  Ấy là báo đáp thù ân.  Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu.  Đệ tử Phật lo âu ǵn giữ.  Mới phải là Thích tử Thiền môn".

 

    Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn.  Môn sanh tứ chúng thảy đều hỷ hoan.  Mục Liên với bốn bang Phật tử.  Nguyện một ḷng tín sự phụng hành.  Trước là trả nghia sinh thành.  Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài. (c)

 

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.

                                                     (3 lần) (c)

*

 

SÁM VU-LAN

Đệ tử chúng con.  Vâng lời Phật dạy.

Ngày rằm tháng bảy.  Gặp Hội Vu Lan.

Phạm Vũ huy hoàng.  Đốt hương đảnh lễ.

Mười phương Tam thế.  Phật pháp thánh hiền.                                                            Noi gương đức Mục Kiền Liên.

Nguyện làm con thảo.

Ḷng càng áo năo.  Nhớ nghĩa thân sanh.

Con đến trưởng thành.  Mẹ dày gian khổ.

 

 

Ba năm nhủ bộ.  Chín tháng cưu mang.

Không ngớt lo toan.  Quên ăn bỏ ngủ.

Ấm no đầy đủ.  Cậy có công cha.

Chẳng quản yếu già.  Sanh nhai lam lủ.

Quyết cùng hoàn vũ.  Phấn đấu nuôi con.

Giáo dục vuông tṛn.  Đem đường học đạo.

Đệ tử ơn sâu chưa báo.  Hổ phận kém hèn.

Giờ này quỳ trước đài sen. 

Chí thành cung kính.   Đạo tràng thanh tịnh.

Tăng bảo trang nghiêm.  Hoặc thừa tự tứ.  Hoặc hiện tham thiền.  Đầy đủ thiện duyên.  Dủ ḷng lân mẫn.  Hộ niệm cho.

Bảy kiếp Cha Mẹ chúng con. 

Đượm nhuần mưa Pháp.  C̣n tại thế.

Thân tâm an ổn.  Phát nguyện tu tŕ.

Đă qua đời.  Ác đạo xa ĺa. 

Chóng thành Phật quả. 

Ngữa trông các đức Như Lai,

Khắp cơi hư không.  Từ bi gia hộ. (cc)

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                     (3 lần) (c)

Nam mô A Di Đà Phật. (3 lần) (c)

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.

                                                    (3 lần) (c)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

                                                     (3 lần) (c)

 

*

 

 

KINH TINH YẾU

 BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

    Bồ Tát Quán Tự Tại.  Khi quán chiếu thâm sâu.  Bát Nhă Ba La Mật.  (Tức diệu pháp Trí Độ).  Bỗng soi thấy năm uẩn.  Đều không có tự tánh.  Thực chứng điều ấy xong.  Ngài vượt thoát tất cả.  Mọi khổ đau ách nạn.

    Nghe đây Xá Lợi Tử:  Sắc chẳng khác ǵ không.  Không chẳng khác ǵ sắc.  Sắc chính    thực là không.  Không chính thực là sắc. C̣n lại bốn uẩn kia.  Cũng đều như vậy cả. (c)

    Xá Lợi Tử nghe đây.  Thể mọi pháp đều không.  Không sanh cũng không diệt.  Không nhơ cũng không sạch.  Không thêm cũng không bớt.  Cho nên trong tánh không.  Không có sắc, thọ, tưởng.  Cũng không có hành, thức.  Không có nhăn, nhĩ, tỷ.  Thiệt, thân, ư (sáu căn).  Không có sắc, thanh, hương.  Vị, xúc, pháp (sáu trần).  Không có mười tám giới.  (Từ nhăn đến ư thức).  Không hề có vô minh.  Không có hết vô minh.  Cho đến không lăo tử.  Cũng không hết lăo tử. Không khổ, tập, diệt, đạo.  Không trí cũng không đắc.

    V́ không có sở đắc.  Khi một vị Bồ Tát.  Nương diệu pháp Trí Độ (Bát Nhă Ba La Mật).  Th́ tâm không chướng ngại.  V́ tâm không chướng ngại.  Nên không có sợ hăi.  Xa ĺa

 

mọi mộng tưởng.  Xa ĺa mọi điên đảo. Đạt niết bàn tuyệt đối.  Chư Phật trong ba đời.  Y diệu pháp Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nên đắc vô thượng giác.

    Vậy nên phải biết rằng.  Bát Nhă Ba La Mật.  Là linh chú đại thần.  Là linh chú đại minh.  Là linh chú vô thượng.  Là linh chú tuyệt đỉnh. Là chân lư bất vọng. Có năng lực tiêu trừ.  Tất cả mọi khổ nạn.  Cho nên tôi muốn thuyết.  Câu thần chú Trí Độ.  (Bát Nhă Ba La Mật).  Nói xong Đức Bồ Tát.  Liền đọc thần chú rằng:

Gate. Gate. Paragate. Parasamgate. Bodhi Svaha. (3 lần) (c)

 

VĂNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN:

    Nam mô a di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha.  A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tỳ ca lan đế, A di rị đa tỳ ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) (c)

 

TAM TỰ QUY Y

- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát ḷng vô thượng.  (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rơ kinh tạng, trí tuệ như biển. (c)

                                                         (lễ 1 lạy)

 

 

- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, hết thảy không ngại. (c)

                                                             (lễ 1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật đạo. (CCC)

 

*

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

48 NGUYỆN CỦA PHẬT A DI ĐÀ

 

    Đại Nguyện Thứ Nhất: Nước không có đường ác.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Thiết lập cơi Tịnh Độ.  Các ác đạo ĺa xa.

    Đại Nguyện Thứ Hai: Không đọa trong đường ác.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Nghiệp trói trong ác đạo.  Con nguyền tự mở ra.

    Đại Nguyện Thứ Ba: Được thân vàng tinh khiết.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Khiến nghiệp con tự tịnh.  Thân tinh khiết như vàng.

    Đại Nguyện Thứ Tư: Đủ ba mươi hai tướng tốt.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Có thân Phật trang nghiêm.

    Đại Nguyện Thứ Năm: Thân cao quư như nhau.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Chúng sanh trong Tịnh Độ.  Thân cao quư như nhau.

    Đại Nguyện Thứ Sáu: Biết thân mạng đời  trước.

 

 

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Biết thân mạng đă qua.

     Đại Nguyện Thứ Bảy: Có được thiên nhăn thông.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Mắt nh́n suốt Ta Bà.

    Đại Nguyện Thứ Tám: Có được thiên nhĩ thông.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Tai thấu nghe thiên hà.

    Đại Nguyện Thứ Chín: Hiểu được tâm người khác.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Thấu hiểu tâm tha nhân.

     Đại Nguyện Thứ Mười: Có được thần túc thông.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Tự tại đi muôn nơi.

    Đại Nguyện Thứ Mười Một: Cúng Phật khắp mười phương.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Như nguyện cúng mười phương.

    Đại Nguyện Thứ Mười Hai: Định tâm chứng Niết Bàn.

 

 

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Định tâm chứng Niết Bàn.

    Đại Nguyện Thứ Mười Ba: Có ánh sáng vô lượng.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Có nguồn sáng bao la.

    Đại Nguyện Thứ Mười Bốn: Được hào quang an lạc.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Khi hào quang soi chiếu.  Thân tâm đuợc an ḥa.

    Đại Nguyện Thứ Mười Lăm: Thọ mạng sống dài lâu.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Được thọ mạng dài lâu.

    Đại Nguyện Thứ Mười Sáu: Chúng Thanh Văn vô số.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.   Nguyện sống đời tịnh hạnh.  Cùng vô số Thanh Văn.

    Đại Nguyện Thứ Mười Bảy: Được chư Phật khen ngợi.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Mười phương chư Như Lai.  Đồng ca ngợi hạnh đức.

    Đại Nguyện Thứ Mười Tám: Trong mười

 

niệm văng sanh.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Nhất tâm trong mười niệm.  Cơi Tịnh Độ hiện ra.

    Đại Nguyện Thứ Mười Chín: Nghe tên liền phát tâm.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Muôn loài nghe tên Phật.  Liền phát nguyện văng sanh.

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi: Được thánh chúng tiếp dẫn.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Khi con ĺa cơi thế.  Phật, Bồ Tát hiện ra.

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi Mốt: Sám hối được văng sanh.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Khi phát tâm sám hối.  Phật tiếp độ văng sanh.       

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi Hai: Nước không có cám dỗ.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Tây Phương cơi Tịnh Độ.  Sự cám dỗ không c̣n.

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi Ba: Chuyển hóa thân phàm phu.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin đem thân phàm tục.  Chuyển hóa thành thanh cao.

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi Bốn: Hóa sanh trong đóa sen.

 

 

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Con được thân thanh tịnh.  Hóa sanh trong đóa sen.

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi Lăm: Được trời người cung kính.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Mọi loài tu tịnh giới.  Trời người đều tôn vinh.

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi Sáu: Nghe tên được phước báu.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Chỉ cần nghe tên Phật.  Đă đủ phước báu rồi.

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi Bảy: Tŕ giới pháp thanh tịnh.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Giới thể được vẹn toàn.

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi Tám: Trong nước không điều ác.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Cơi Tịnh Độ thanh tịnh.  Điều ác không phát sanh.

    Đại Nguyện Thứ Hai Mươi Chín: An trụ trong chánh định.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Trong chánh định an vui.

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi: Có niềm vui vô tận.

 

 

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Các phiền năo dứt sạch.  Niềm vui không tận cùng.

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi Mốt: Không tham chấp thân ḿnh.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Nh́n thấy rơ vọng tưởng.  Không tham chấp thân ḿnh.

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi Hai: Có được thân kim cang.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện các Bồ Tát.  Đều được thân kim cang.

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi Ba: Được trí tuệ sáng suốt.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Được trí tuệ bao la.

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi Bốn: Có biện tài vô ngại.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Được biện tài vô biên.     

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi Lăm: Luân hồi thêm một đời.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Muôn loài thêm một kiếp.  Đồng chứng quả Phật Đà.

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi Sáu: Giáo hóa tùy tâm nguyện.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin

 

 

nguyện cho muôn loại.  Giáo hóa được tùy tâm.

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi Bảy: Ăn mặc như ư nguyện.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Xin nguyện cho muôn loại.  Được y thực tự nhiên.

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi Tám: Trong định cúng dường Phật.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Nguyện Bồ Tát tại định.  Thường cúng Phật mười phương.

    Đại Nguyện Thứ Ba Mươi Chín: Cơi trang nghiêm vô tận.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Cơi Tây Phương Tịnh Độ.  Trang nghiêm không tận cùng.

    Đại Nguyện Thứ Bốn Mươi: Các cây nhiều màu sắc.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Tâm trang nghiêm thanh tịnh.  Hàng cây trổ muôn hoa.

    Đại Nguyện Thứ Bốn Mươi Mốt: Bồ Đề hiện Phật cảnh.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Trên cây Bồ Đề hiện.  Cơi Phật khắp mười phương.

    Đại Nguyện Thứ Bốn Mươi Hai: Thanh tịnh chiếu mười phương.

 

 

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Cơi Tây phương an tịnh.  Soi chiếu khắp muôn nơi.

    Đại Nguyện Thứ Bốn Mươi Ba: Hương thơm xông khắp nơi.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Hương thơm giới định huệ.  Xông ướp cơi nhân thiên.

    Đại Nguyện Thứ Bốn Mươi Bốn: Nghe danh được giải thoát.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Khi nghe đến danh Phật.  Được giải thoát luân hồi.

    Đại Nguyện Thứ Bốn Mươi Lăm: Nhập định cúng dường Phật.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Đem công phu thiền định.  Cúng vô lượng Phật Đà.

    Đại Nguyện Thứ Bốn Mươi Sáu: Nghe Pháp tùy tâm nguyện.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Bồ Tát trong các cơi.  Thường nghe diệu pháp âm.

    Đại Nguyện Thứ Bốn Mươi Bảy: Nghe danh chứng vô sanh.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Muôn loài nghe danh Phật.  Chứng thật tánh vô sanh.

 

 

    Đại Nguyện Thứ Bốn Mươi Tám: Tinh tấn không thối lui.

Con đem tâm kính lễ.  Đức Phật A Di Đà.  Bồ Tát trong các cơi.  Tinh tấn không thối lui.

 

*

 

 

 

 

 

 

 

CÁC BÀI SÁM NGUYỆN

 

1. QUY NGUYỆN

Trầm hương xông ngát điện.

Sen nở Phật hiện thân. 

Pháp giới thành thanh tịnh.

Chúng sanh lắng nghiệp trần. (c)

Đệ tử tâm thành.  Hướng về Tam Bảo.

Phật là thầy chỉ đạo.  Bậc tỉnh thức vẹn toàn.

Tướng tốt đoan trang.  Trí và bi viên măn. (c)

Pháp là con đường sáng. 

Dẫn người thoát cơi mê.

Đưa con trở về.  Sống cuộc đời tỉnh thức. (c)

Tăng là đoàn thể đẹp.  Cùng đi trên đường vui.

Tu tập giải thoát.  Làm an lạc cuộc đời. (c)

Đệ tử nương nhờ Tam Bảo. 

Trên con đường học đạo.

Biết Tam Bảo của tự tâm. 

Nguyện xin chuyên cần.

Làm sáng ḷng ba viên ngọc quư. (c)

Nguyện theo hơi thở.  Nở nụ cười tươi.

Nguyện học nh́n cuộc đời. 

Bằng con mắt quán chiếu.

Nguyện xin t́m hiểu.  Nỗi khổ của mọi loài.

Tập từ bi.  Hành hỷ xả.

Sáng cho người thêm niềm vui.

Chiều giúp người bớt khổ.

 

 

Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục.

Nếp sống lành mạnh an ḥa.

Cho thân thể kiện khương. 

Nguyện ru bỏ âu lo.  Học tha thứ bao dung.  Cho tâm tư nhẹ nhơm. 

Đệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo.

Ơn cha mẹ ơn thầy.  Ơn bè bạn chúng sanh.  Nguyện tu học tinh chuyên. 

Cho cây bi trí nở hoa.  Mong một ngày kia.

Có khả năng cứu độ mọi loài.

Vượt ra ngoài cơi khổ.

Xin nguyện Phật, Pháp, Tăng chứng minh.

Gia hộ cho đệ tử chúng con.

Viên thành đại nguyện. (cc)

 

2. BÀI TỤNG HẠNH PHÚC

Chúng con được ngồi đây.

Trong phút giây hiện tại. 

Bao bọc bởi tăng thân.

Thấy ḿnh thật may mắn.

Sinh ra được làm người.

Con sớm gặp chánh pháp.

Hạt Bồ Đề tưới tẩm.  Lại có duyên được sống.

Ḥa hợp trong tăng thân. (c)

Năng lượng của tăng đoàn.

Giới luật và uy nghi.  Đang bảo hộ cho con.  Không để gây lầm lỗi. 

Không bị nghiệp xấu đẩy.  Đi về nẻo tối tăm.

 

 

Lại được cùng bạn hiền.

Đi trên đường chân thiện. 

Có ánh sáng chiếu soi.

Của Phật và Bồ Tát. (c)

Tuy có mặt trong con. 

Những hạt giống khổ đau.

Phiền năo và tập khí.

Nhưng chánh niệm hiện tiền.

Vẫn thường luôn biểu hiện.

Giúp cho con tiếp xúc.

Với những ǵ mầu nhiệm.

Có mặt trong tự thân.

Và có mặt quanh con. (c)

Sáu căn c̣n đầy đủ. Mắt thấy được trời xanh.

Tai nghe tiếng chim hót.

Mũi ngửi thấy hương trầm.

Lưỡi nếm được pháp vị.

Thế ngồi con vững chăi.  Ư hợp nhất với thân.

Nếu không có Thế Tôn.

Nếu không có Diệu Pháp. 

Nếu không có Tăng Đoàn. 

Làm sao con may mắn. 

Được pháp lạc hôm nay? (c)

Công phu tu tập này.  Con cũng xin hành tŕ.

Cho gia đinh, ḍng họ.  Cho thế hệ tương lai.

Và cả cho xă hội.  Niềm an lạc của con.

Là vốn liếng tu tập.  Con xin nguyền vun bón.

Tưới tẩm và nuôi dưỡng.

 

 

Bằng chánh niệm hàng ngày. (c)

Trong xă hội của con. 

Bao nhiêu người đau khổ.

Ch́m đắm trong năm dục.

Ganh ghét và hận thù.

Thấy được những cảnh ấy.

Con quyết tâm hành tŕ.

Điều phục những tâm hành.

Tham đắm và giận ghét.

Tập khả năng lắng nghe.  Và sử dụng ái ngữ.

Để thiết lập truyền thông.

Tạo nên sự hiểu biết. 

Chấp nhận và thương yêu. (c)

Như đức Bồ Tát kia.  Con nguyện xin tập nh́n 

Mọi nguời chung quanh con. 

Bằng con mắt từ bi.  Bằng tâm t́nh hiểu biết. 

Con xin tập lắng nghe. Bằng lỗ tai xót thương 

Bằng tấm ḷng lân mẫn.

Nh́n và nghe nhu thế.  Là hạnh của Bồ Tát.

Có thể làm vơi nhẹ. Khổ đau trong ḷng người 

Đem lại niềm an lạc.  Về cho cả hai phía. (c)

Chúng con ư thức rằng. 

Chính phiền năo si mê.

Làm cho thế giới này.  Trở thành nơi hỏa ngục

Nếu tu tập chuyển hóa.

Chế tác được hiểu biết.

Cảm thông và thương yêu. 

Chúng con sẽ tạo được.

 

 

Tịnh Độ ngay nơi này

Dù cuộc đời vô thường.  Dù sinh lăo bệnh tử.

Đăđường đi rồi.  Con không c̣n lo sợ. (c)

Hạnh phúc thay được sống. 

Trong tăng đoàn Thế Tôn. 

Được hành tŕ giới định. 

Sống vững chăi thảnh thơi.

Trong từng giây từng phút. 

Của cuộc sống hàng ngày.

Và trực tiếp tham gia.  Vào sự nghiệp độ sinh.

Của Phật và Bồ Tát. (c)

Giờ phút này quư báu. 

Niềm biết ơn tràn dâng.

Xin lạy đức Thế Tôn. 

Chứng minh và nhiếp thọ. (cc)

 

3. SÁM NGUYỆN

Trang nghiêm đài sen ngự tọa.  Đại hùng từ phụ Thích Ca.  Đệ tử lắng ḷng thanh tịnh.   Bàn tay chắp thành liên hoa.  Cung kính hướng về Điều ngự.  Dâng lời sám nguyện thiết tha. (c)

 

Đệ tử phước duyên thiếu kém.  Sống trong thất niệm lâu dài.  Không được sớm gặp chánh pháp.  Bao nhiêu phiền lụy đă gây.  Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại.  Vô minh che lấp tháng ngày.  Vườn tâm gieo hạt giống xấu.

 

Tham,  sân, tự ái dẫy đầy.  Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng.  Gây nên từ trước đến nay.  Những điều đă làm, đă nói.  Thường gây đổ vỡ hàng ngày.  Bao nhiêu năo phiền nghiệp chướng.  Nguyện xin sám hối từ đây. (c)

 

Đệ tử thấy ḿnh nông nổi.  Con đường chánh niệm lăng xao.  Chất chứa vô minh phiền năo.  Tạo nên bao nỗi hận sầu.  Có lúc tâm tư buồn chán.  Mang đầy dằn vặt lo âu.  V́ không hiểu được kẻ khác.  Cho nên hờn giận, oán cừu.  Lư luận xong rồi trách móc.  Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau.  Chia cách hố kia càng rộng.  Có ngày không nói với nhau.  Cũng không muốn nh́n thấy mặt.  Gây nên nội kết dài lâu.  Nay con hướng về Tam Bảo.  Ăn năn khẩn thiết cúi đầu.

 

Đệ tử biết trong tâm thức.  Bao nhiêu hạt tốt  lấp vùi.  Hạt giống thương yêu, hiểu biết.  Và bao hạt giống an vui.  Nhưng v́ chưa biết tưới tẩm.  Hạt lành không mọc tốt tươi.  Cứ để khổ đau tràn lấp.  Làm cho đen tối cuộc đời.  Quen lối bỏ h́nh bắt bóng.  Đuổi theo hạnh phúc xa vời.  Tâm cứ bận về quá khứ.  Hoặc lo rong ruổi tương lai.  Quanh quẩn trong ṿng buồn giận.  Xem thường bảo vật trong tay.  Dày đạp lên trên hạnh phúc.  Tháng năm sầu khổ miệt mài.  Giờ đây trầm xông

 

bảo điện.  Con nguyền sám hối đổi thay. (c)

 

Đệ tử tâm thành quy ngưỡng.  Hướng về chư Phật mười phương.  Cùng với các vị Bồ Tát.  Thanh văn, Duyên giác, Thánh hiền.  Chí thành cầu xin sám hối.  Bao nhiêu lầm lỡ triền miên.  Xin lấy cam lồ tịnh thủy.  Tưới lên dập tắt năo phiền.  Xin lấy con thuyền chánh pháp.  Đưa con vượt nẻo oan khiên.  Xin nguyện sống đời tỉnh thức.  Học theo đạo lư chân truyền.  Thực tập nụ cười hơi thở.  Sống đời chánh niệm tinh chuyên. (c)

 

Đệ tử xin nguyền trở lại.  Sống trong hiện tại nhiệm mầu.  Vườn tâm ươm hạt giống tốt.  Vun trồng hiểu biết, thương yêu.  Xin nguyện học phép quán chiếu.  Tập nh́n tập hiểu thật  sâu.  Thấy được tự tánh các pháp.  Thoát ngoài sinh tử trần lao.  Nguyện học nói lời ái ngữ.  Thương yêu, chăm sóc sớm chiều.  Đem nguồn vui tới mọi nẻo.  Giúp người vơi nỗi sầu đau.  Đền đáp công ơn cha mẹ.  Ơn thầy nghĩa bạn dày sâu.  Tín thành tâm hương một nén.  Đài sen con nguyện hồi đầu.  Nguyện đức từ bi che chở.  Trên con đường đạo nhiệm mầu.  Nguyện xin chuyên cần tu tập.  Vuông tṛn đạo quả về sau. (cc)

 

 

 

4. BÀI THẬP PHƯƠNG

Chư Phật thế tôn, mười phương ba đời,

A Di Đà Phật là bậc thứ nhất,

Hoa sen chín phẩm, tiếp độ chúng sinh,

Uy thần công đức, không thể cùng cực.

Nay con trọn vẹn, qui y với ngài,

Sám hối lầm lỗi, của thân miệng ư,

Bao nhiêu phước lành, mà con có được,

Con xin hết ḷng, hồi hướng về ngài,

Nguyện như những người, đă từng niệm Phật,

Là sự cảm ứng, theo lúc hiện ra,

Và khi mạng chung, th́ cảnh Cực lạc

Hiện ra rơ ràng, ở trước mắt con,

Làm cho những người, thấy được nghe được

Đều cùng tinh tiến, cùng sinh Cực lạc,

Và nh́n thấy Phật, là thoát sinh tử,

Hóa độ tất cả, như Phật hóa độ.

Vô biên phiền năo, thệ nguyện đoạn trừ,

Vô lượng pháp môn, thệ nguyện tu học,

Thệ nguyện hóa độ, các loài chúng sinh,

Làm cho cùng được, tuệ giác của Phật.

Không gian có thể, cùng tận đi nữa,

Tâm nguyện của con, vẫn không cùng tận,

Nguyện cầu hết thảy, hữu t́nh vô t́nh

Đồng được viên thành, tuệ giác chư Phật. (cc)

 

5. BÀI KHẾ THỦ

    Con xin kính lạy, A Di Đà Phật, đức Phật

 

hóa chủ, quốc độ Cực lạc, ở về hướng tây, đức Đại đạo sư, dẫn đạo chúng sinh, sinh về Cực lạc.  Nay con phát nguyện, nguyện sinh cơi ngài, xin Phật từ bi, nhiếp thọ cho con.  Con v́ tất cả, bốn ơn ba cơi, pháp giới chúng sinh, lại v́ mong cầu tuệ giác vô thượng, của Phật thế tôn, cho nên chuyên nhất, tất cả tâm trí, tŕ niệm hồng danh, đủ hết muôn đức của đức bổn tôn, A Di Đà Phật, để cầu được sinh, thế giới trong sạch.  Tâm nguyện như vậy, nhưng bản thân con, ác nghiệp quá nặng, phước đức c̣n nhẹ, ma chướng sâu dày, tuệ giác cạn mỏng, cái tâm dơ bẩn, rất dễ bùng dậy, cái đức trong sạch, lại khó viên thành.  Cho nên ngày nay, con xin đối trước, đức Phật bổn tôn, thập phương chư Phật, cả năm bộ phận, cùng cực tinh tiến, chuyên một tâm trí, trải gột trọn vẹn, hết ḷng chân thành, cầu xin sám hối:

 

    Con với chúng sinh, nhiều kiếp đến giờ, khuất mờ âm tánh, trong sạch của ḿnh, phóng túng tất cả, thói tham sân si, nhuốm bẩn hết thảy, thân miệng ư nghiệp, tạo ra tội lỗi, vô lượng vô biên, kết nên oan nghiệt, vô cùng vô tận, ngày nay con nguyện, diệt bỏ tất cả.

 

    Kể từ ngày nay, con xin chí thành, lập nên

 

thệ nguyện, tha thiết sâu xa: nguyện xa tội ác, thề không làm nữa, nguyện tu thánh hạnh, thề không biếng nhác, nguyện thành chánh giác, nguyện độ chúng sinh.  Xin đức bổn tôn, A Di Đà Phật, vận dụng sức mạnh, thệ nguyện từ bi, chứng biết cho con, xót thương cho con, thời thường giữ ǵn, che chở cho con.  Nguyện trong thiền quán, hay trong giấc mộng, con được nh́n thấy, thân thể sắc vàng, của đức Bổn tôn, con được đi đến, quốc độ trang nghiêm, của đức Bổn tôn; con được mong ơn, đức Phật Bổn tôn, dùng nước cam lộ, rưới trên đầu con, dùng ánh quang minh, soi đến thân con, dùng bàn tay vàng, xoa trên đầu con, dùng vạt pháp y, phủ lấy thân con, làm con tự hết, nghiệp chướng đă tạo, lớn thêm gốc rễ, thánh hạnh đang tu, hết liền phiền năo, phá liền vô minh, diệu tâm viên giác, rỗng rang mở tỏ, chân cảnh tịch quang, thường xuyên hiện tiền.  Đến lúc sinh mạng, sắp sửa kết thúc, nguyện được biết trước, ngày giờ sẽ đến, thân không những thứ, bịnh khổ dày ṿ, tâm không những thứ, luyến tiếc thác loạn, giác quan vui đẹp, chánh niệm phân minh, yên lành thư thái, xả bỏ báo thân, y nhu b́nh thường, tham nhập thiền định.  Và đức Bổn tôn, A Di Đà Phật, cùng đức Quan âm, và đức Thế chí, đến với vô số,

 

các vị thánh hiền, phóng ánh sáng lớn, mà đón tiếp con, đưa cánh tay vàng, mà dắt dẫn con.  Lầu đài cờ phướn, hương lạ nhạc trời, cảnh thánh Cực lạc, bày trong tầm mắt, làm cho những người, được thấy được nghe, hoan hỷ cảm thán, phát bồ đề tâm.  Phần con lúc ấy, tự thấy được ngồi, trên đài kim cang, lướt theo sau Phật, chỉ trong khoảnh khắc, như một đàn chỉ, sinh trong hoa sen, quí báu bậc nhất, của hồ thất bảo, quốc độ Cực lạc.  Hoa nở thấy Phật, thấy các bồ tát, nghe tiếng diệu pháp, được tuệ vô sinh, và trong giây lát, là đă thừa sự, chư Phật Như lai, lại c̣n đích thân, được Phật Bổn tôn, thọ kư làm Phật.  Sau khi được Phật, thọ kư làm Phật, ba thứ thân thể, bốn thứ trí giác, năm thứ con mắt, sáu thứ thần thông, vô số trăm ngàn, đại tổng tŕ môn, hết thảy thành quả, hoàn thiện đầy đủ.  Sau đó th́ con, y theo bản nguyện, không hề trái với, quốc độ Cực lạc, mà vẫn trở lại, quốc độ Ta bà, và phân thân ra, khắp các quốc độ, vận dụng thần lực, cực kỳ tự tại, vận dụng phương tiện, đủ mọi h́nh thái, -- thần lực phương tiện, được vận dụng đó, siêu việt tư duy, không thể bàn luận -- hóa độ cứu thoát, hết thảy chúng sinh, làm cho chúng sinh, người nào cũng được, thoát ly ô nhiễm, phục hồi tịnh tâm, đồng sinh Cực lạc, lên bậc

 

Bất thoái.  Đại nguyện như vậy, vũ trụ, chúng sinh, hạnh nghiệp, phiền năo, đều không cùng tận, nguyện ấy đồng đẳng cũng không cùng tận. 

 

    Bao nhiêu công đức, con làm ngày nay: đảnh lễ Phật đà, phát khởi thệ nguyện, tu tập thánh hạnh, tŕ niệm hồng danh, con nguyện cúng hiến, hết thảy chúng sinh, báo đáp bốn ơn, cứu giúp ba cơi, pháp giới chúng sinh, viên thành trí Phật. (cc)

 

 6. BÀI TẠI HỘI

Một là lễ kính Phật đà,

Hai là tán dương Như Lai,

Ba là hiến cúng rộng lớn,

Bốn là sám hối nghiệp chướng,

Năm là tùy hỷ công đức,

Sáu là xin chuyển pháp luân,

Bảy là xin Phật ở đời,

Tám là thường học theo Phật,

Chín là hằng thuận chúng sinh,

Mười là hồi hướng khắp cả.

 

    Nguyện đệ tử chúng con, trong hội niệm Phật này, khi báo thân Ta bà, sắp đến lúc kết thúc, th́ sau đó ba ngày, và trước đó bảy ngày, tâm không bị thác loạn, ư không bị phân tán, không chịu sự đau đớn, không bị sự

 

buộc ràng, biết trước ngày giờ chết, thân tâm đều vui đẹp, rồi nằm mà qua đời, theo cách nằm cát tường, hoặc ngồi mà thoát hóa, hoặc đứng mà mạng chung.  Đức A Di Đà Phật, cùng bao Phật hóa thân, và các đại Bồ Tát, Quán Âm với Thế Chí, Thanh Văn hàng trăm ngàn, chư thiên vô số lượng, đến với điện thất bảo, trong có đài kim cang, nhạc trời vang trên không, hương lạ tràn trong pḥng, tràng phan rất rực rỡ, bảo cái cực huy hoàng.  Ngài lại đưa tay ḿnh, đích thân dắt chúng con.  Làm cho người thấy nghe, đều sinh tâm hoan hỷ, đều phát nguyện bồ đề, nguyện bỏ ác làm lành, quay lưng với đường tà, hướng mặt về nẻo chánh.

 

    Chúng con nguyện như vậy, ngưỡng mong đức Bổn tôn A Di Đa Như Lai, từ bi mà nhiếp thọ. (cc)

 

7. BÀI NGĂ KIM

Nay con tŕ niệm, danh hiệu đầy đủ,

Công đức chân thật, của Phật Di Đà,

Xin Phật từ bi, nhiếp thọ cho con,

Chứng minh cho con, sám hối nguyện cầu:

Bao nhiêu nghiệp dữ, mà con đă làm,

Đều bởi vô thỉ, những tham sân si,

Động thân miệng ư, mà phát sinh ra,

 

 

Ngày nay con xin, sám hối tất cả.

Nguyện cầu cho con, trong lúc gần chết,

Khỏi có tất cả, những sự trở ngại,

Trực tiếp nh́n thấy, đức Phật bổn tôn,

Tức khắc được sinh, quốc độ Cực lạc;

Sau khi được sinh, quốc độ ấy rồi,

Đích thân được Phật, thọ kư làm Phật,

Phân thân vô số, khắp các quốc độ,

Hóa độ rộng lớn, hết thảy chúng sinh. (cc)

 

8. PH̉NG HỘ CHUYỂN HÓA

Đệ tử chúng con từ vô thỉ

Gây bao nghiệp chướng bởi lầm mê

Vào ra sinh tử biết bao lần

Nay đến trước đài Vô Thượng Giác.

Biển trần khổ lâu đời trôi giạt

Hôm nay trông thấy Đạo huy hoàng

Con hướng về theo ánh từ quang

Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước. (c)

Bao tội khổ trong đời ác trược

V́ tham, sân, si, mạn gây nên

Hôm nay đây khẩn thiết thệ nguyền

Xin sám hối để ḷng thanh thoát

Trí tuệ quang minh như nhật nguyệt

Từ bi vô lượng cứu quần sanh

Con nhất tâm nguyện sống đời lành

Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo

Lên thuyền Từ vượt qua biển Khổ

 

 

Cầm đuốc thiêng ra khỏi rừng Mê

Văn, Tư, Tu xin quyết hành tŕ

Thân, Miệng, Ư noi về chánh kiến

Đi đứng nằm ngồi trong chánh niệm

Vào ra cười nói tướng đoan nghiêm                                                         

Mỗi khi tâm buồn giận lo phiền

Nguyện nhiếp niệm trở về hơi thở

Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ

Mỗi cái nh́n thấy được Pháp thân

Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần

Đem ư thức tinh chuyên pḥng hộ

Tập khí năm xưa rồi chuyển hóa

Vườn tâm tuệ giác nở trăm hoa

Niềm an vui đem khắp mọi nhà

Hạt giống tốt gieo về muôn lối

Cùng tăng thân xin nguyền ở lại

Nơi cơi đời làm việc độ sanh

Giờ phút này sông núi chứng minh

Cúi xin đức Từ Bi nhiếp thọ. (cc)

 

9. QUÁN NGUYỆN

    Lạy đức Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết lắng tai nghe cho cuộc đời bớt khổ.  Ngài là trái tim biết nghe và biết hiểu.  Chúng con xin tập ngồi nghe với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con.  Chúng con xin tập ngồi nghe với tâm không thành kiến.  Chúng con xin tập

 

ngồi nghe mà không phán xét, không phản ứng.  Chúng con nguyện tập ngồi nghe để hiểu.  Chúng con xin nguyện ngồi nghe chăm chú để có thể hiểu được những điều đang nghe và cả những điều không nói.  Chúng con biết chỉ cần lắng nghe thôi, chúng con cũng đă làm vơi bớt rất nhiều khổ đau của kẻ khác rồi.

 

    Lạy đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, biết dừng lại và nh́n sâu vào ḷng sự vật và vào ḷng người. Chúng con xin tập nh́n với tất cả sự chú tâm và thành khẩn của chúng con.  Chúng con xin tập nh́n với con mắt không thành kiến. Chúng con xin tập nh́n mà không phán xét, không phản ứng.  Chúng con nguyện tập nh́n sâu để thấy và để hiểu những gốc rễ của mọi khổ đau, để thấy được tự tánh vô thường và vô ngă của vạn vật. Chúng con xin học theo hạnh Ngài, dùng gươm trí tuệ để đoạn trừ phiền năo, giải thoát khổ đau cho chúng con và cho mọi giới.

 

    Lạy đức Bồ Tát Phổ Hiền, chúng con xin học theo hạnh nguyện của Bồ Tát, biết đem con mắt và trái tim đi vào cuộc sống.  Chúng con xin nguyện buổi sáng dâng niềm vui cho người, buổi chiều giúp người bớt khổ. Chúng

 

con biết hạnh phúc của người chính là hạnh phúc của ḿnh, và nguyện thực hiện niềm vui trên con đường phụng sự.  Chúng con biết mỗi lời nói, mỗi cái nh́n, mỗi cử chỉ và mỗi nụ cười đều có thể đem lại hạnh phúc cho người.  Chúng con biết rằng, nếu chúng con siêng năng tu tập, th́ tự thân chúng con có thể là một nguồn an lạc bất tuyệt cho những người thân yêu của chúng con và cho cả muôn loài.

 

    Lạy đức Bồ Tát Địa Tạng, chúng con xin học theo hạnh Bồ Tát, t́m cách có mặt ở bất cứ nơi nào mà bóng tối, khổ đau, tuyệt vọng và áp bức c̣n đang trấn ngự, để có thể mang đến những nơi ấy ánh sáng, niềm tin, hy vọng và giải thoát.  Chúng con nguyện không bao giờ quên lăng và bỏ rơi những người c̣n đang bị kẹt trong những t́nh huống tuyệt vọng, nguyện cố gắng thiết lập liên lạc với những ai đang không c̣n lối thoát, những ai bị bưng bít không có phương tiện lên tiếng kêu gọi công b́nh, nhân phẩm và quyền được làm người.  Chúng con biết địa ngục có mặt khắp nơi trên thế giới và chúng con nguyện sẽ không bao giờ tiếp sức xây dựng thêm những địa ngục trần gian như thế; trái lại, chúng con xin nguyện nỗ lực giải trừ những

 

địa ngục c̣n đang có mặt.  Chúng con nguyện tu học để đạt được đức vững chăi và kiên tŕ của Đất, để có thể trở thành trung kiên và không kỳ thị như Đất, và cũng được như Đất có thể làm nơi nương tựa cho tất cả những ai cần đến chúng con. (cc)

 

*

 

 

CÁC LỜI TÁC BẠCH

 

1. LỜI TÁC BẠCH VU LAN

(Dâng Y hoặc Cúng Dường Trai Tăng)

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phât.

 

    Hôm nay đệ tử chúng con gồm các Phật tử…. có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch.

(Lạy một lạy, quỳ xuống đọc)

 

Kính bạch Đại Đức Tăng chứng giám.

    “Cây có cội nước có nguồn”.  Làm người ai cũng có cội nguồn, huyết thống và tâm linh.  Người Phật tử lúc nào cũng nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ ông bà; công ơn giáo dưỡng của Thầy Tổ. Chúng con lúc nào cũng nghĩ đến sự báo đền ân đức cao trọng này.

    Nhân ngày Vu Lan, chúng con vâng lời Phật dạy, thiết lễ (dâng y Ca Sa, cúng dường trai phạn) dâng lên mười phương Chư Phật và hiện tiền Tăng. Ngưỡng cầu Đại Đức Tăng từ bi hộ niệm cho cửu huyền thất tổ, ông bà cha mẹ nhiều đời của chúng con được thấm nhuần mưa Pháp, siêu sanh Tịnh Độ.  Và hiện tiền phụ mẫu thân tâm an lạc, phát nguyện tu tŕ. Chúng con ngưỡng mong Đại Đức Tăng từ bi nạp thọ.

(Quỳ chờ Thầy ban đạo từ)

 

    Đại Đức Tăng đă từ bi hứa khả, chúng con xin thành tâm đảnh lễ cúng dường.

(Lạy ba lạy rồi lui ra)

 

2. LỜI TÁC BẠCH BÁT QUAN TRAI

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phât.

 

    Hôm nay đệ tử chúng con gồm các Phật tử…. có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch.

(Lạy một lạy, quỳ xuống đọc)

 

Kính bạch Đại Đức Tăng chứng giám.

    Chúng con hàng Phật tử tại gia v́ thiếu duyên lành, gia duyên ràng buộc chưa thể xuất gia tu tâp giải thoát.  Đức Phật thương xót chúng cư sĩ tại gia đă chế pháp tu Bát Quan Trai để chúng con có thể tu hạnh xuất gia trong một ngày một đem.  Nhờ phước đức này làm phương tiện vượt thoát luân hồi, tiến đến bờ giải thoát.  Nay chúng con vâng lời Phật dạy xin nguyện thọ tŕ giới Bát Quan Trai.  Chúng con thành tâm đảnh lễ ngưỡng cầu Chư Tôn Đức từ bi lân mẫn truyền trao giới pháp cho chúng con được ân triêm công đức.

(Quỳ chờ Thầy ban đạo từ)

 

Chư Tôn Đức đă từ bi hứa khả, chúng con xin thành tâm đảnh lễ cúng dường.

(Lạy ba lạy rồi lui ra)       

                      

*

 

 

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT

 

    Nghi lễ là một trong những pháp môn tu.  Nghi lễ là phương pháp giúp chúng ta định tâm và chuyển hóa các trọng nghiệp trong lúc tụng kinh và niệm Phật.  Do đó trong khi thực hành điều quan trọng là phải giữ thân tâm thanh tịnh và tập trung tư tuởng.  Để cho buổi lễ trang nghiêm và sự hành tŕ có kết quả, chúng ta cần lưu ư những điều sau:

 

1. THIẾT BÀN THỜ TẠI NHÀ

    Bàn thờ là linh hồn của ngôi nhà, là nơi thờ Phật, thờ ông bà, nơi tu tập của gia đinh.  Do đó chúng ta phải chọn nơi trang nghiêm thanh tịnh để thiết bàn thờ.  Chính giữa thờ Phật và Bồ Tát, hai bên thờ ông bà.  Có thể thiết trí thờ Phật ở trên và thờ ông bà ở dưới; hoặc để ở vị trí trước sau. Nếu thờ Phật và ông bà chung một bàn th́ để h́nh Phật ở giữa kê cao lên và h́nh ông bà để hai bên thấp hơn.  Nếu thờ nhiều h́nh Phật và Bồ Tát th́ đặt h́nh Phật ở giữa và Bồ Tát hai bên.  Nếu nhiều h́nh hay tượng Phật th́ đặt Phật Thích Ca chính giữa, các vị Phật và Bồ Tát hai bên.

Trên bàn thờ để lư hương, chân đèn, hoa quả và ly nuớc trong. (Hương hay nhang tượng trưng cho Giới; Đèn tuợng trưng cho Huệ; Nước tượng trưng cho Định; Hoa tượng trưng cho Vô Thường; Quả tượng trưng cho Nhân Quả). Chúng ta cúng Phật bằng Giới, Định, Huệ; cùng đạo lư Vô Thường và Nhân Quả.

    Cúng ông bà nên cúng thực phẩm chay tinh khiết. 

    Nhang không nên thắp nhiều.  Thường th́ thắp ba cây, nhưng tốt hơn chỉ thắp một cây mà thôi.

 

2. CÁCH THỨC LỄ LẠY

    Lạy Phật: lạy ba lạy (Phật, Pháp, Tăng) trong tư thế Ngũ Thể Đầu Địa (năm vóc chấm đất).  Đứng thẳng người trước bàn thờ, hai bàn chân tạo h́nh chử V, hai tay đưa lên trán, rồi lạy xuống.  Khi hai gối chấm đất, hai tay đặt sát nhau phía trước.  Khi trán cúi xuống, mở hai bàn tay ra như h́nh hoa sen để kê đầu.  Sau đó sấp hai tay lại đẩy nhẹ để đứng lên.  Hai tay mở ra tượng trưng cho “Thượng cầu Phật đạo”: trên cầu Phật đạo.  Hai tay sấp lại tượng trưng cho “Hạ hóa chúng sanh”: dưới hóa độ chúng sanh.

 

     Lạy Phật cũng là một pháp môn tu. Xin xem phụ lục: “Pháp Môn Lạy Phật”.

   

    Lạy tổ tiên: lạy bốn lạy (cha mẹ bốn đời) hoặc hai lạy (lạy ông bà).  Cách thức lạy cũng giống như cách lạy Phật.

 

3. QUY Y TAM BẢO

    Thông thường rất nhiều Phật tử nghĩ rằng ḿnh tu tâm không cần quy y Tam Bảo cũng được.  Đây chỉ là cách nói cho qua chuyện.  Hay có người nói rằng tôi c̣n sân si nhiều quá chưa quy y được.  Nếu ḿnh đă hoàn hảo rồi th́ đâu cần quy y nữa!  Tục ngữ có câu:   “Không thầy đố mầy làm nên.”  Nếu muốn tốt nghiệp th́ phải ghi tên đi học, chứ ngồi nhà tự học th́ làm sao tốt nghiệp được.  Do đó vấn đề quy y Tam Bảo là bước đầu trong việc tu học.

    Quy y là quay về nương tựa.  Tam Bảo là ba ngôi báu: Phật, Pháp và Tăng.  Chúng ta nương theo Phật,  giáo pháp của ngài và chư tăng ni để sống an lạc hạnh  phúc giữa cuộc đời đầy phong ba băo táp.

 

 

    Vậy phải quy y như thế nào?  Chúng ta có thể đến bất kỳ một ngôi chùa nào ở gần nhà để xin quy y với một vị thầy hay sư cô đạo hạnh.  Khi quy y chúng ta giữ ǵn năm giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối và không sử dụng các chất say sưa.  Năm giới này là căn bản cho sự an toàn và hạnh phúc trong xă hội, do đó bất kỳ một xă hội nào cũng tôn trọng năm giới điều này.  Chúng ta được may mắn hành tŕ năm giới này, chúng ta sẽ mang an vui hạnh phúc đến cho ḿnh và cho mọi người.

 

4. CÁC GIỚI KHÁC

    Sau thời gian tu tập, các Phật tử phát tâm thọ thêm những giới khác để tiến tu.  Căn bản của những giới này cũng chỉ là năm giới, nhưng chi tiết hơn.

    - Bát Quan Trai Giới: gồm năm giới và các giới khác như: không ca hát nhảy múa, không nằm giường cao chiếu rộng, không ăn phi thời. Phật chế năm giới này cho người tại gia gieo duyên xuất gia sống một ngày an lạc giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế tục.

    - Thập Thiện Giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói láo, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thô ác, không dua nịnh, không tham, không sân và không si.

    - Bồ Tát Giới: gồm mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh.

 

5. CÁCH THỨC SỬ DỤNG CHUÔNG MƠ

    Sau khi lễ Phật xong, ngồi xuống để khai chuông

mơ bắt đầu tụng kinh.

(Kư hiệu Chuông: O; kư hiệu Mơ: X; nhập chuông: /)

 

 

O O O /

X X X X XX X

O X

O X

O X

X XX X /

 

    Đây là cách thức: “Khởi thất, câu tam, dứt tứ” (bắt đầu bảy tiếng, giữa ba tiếng và cuối bốn tiếng). Số Bảy tượng trưng cho Thất Bồ Đề Phần (bảy pháp tu giác ngộ): niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả.  Ba tiếng chuông tượng trưng cho Giới, Định, Huệ.  Ba tiếng mơ tượng trưng cho Tham, Sân, Si.  Bốn tiếng mơ sau cùng tượng trưng cho Sanh, Lăo, Bịnh, Tử.

    Sau đó khi tụng kinh, đánh mơ chậm răi và đều đặn, mỗi chữ một tiếng mơ.  Khi gần dứt chữ gần cuối đánh hai tiếng mơ và chữ cuối đánh một tiếng để dứt.

Chuông thỉnh sau mỗi đoạn để báo hiệu cho Mơ biết sắp kết thúc. Vị thỉnh chuông gọi là Duy Na, vị đánh mơ là Duyệt Chúng.

 

6. TỔ CHỨC NHẬP THẤT TẠI GIA

    Ngoài những ngày tu tập tại Chùa, quư Phật tử có thể thực hiện nhập thất tại gia.  Tùy theo điều kiện thời gian có được, quư vị có thể nhập thất từ một ngày đến bảy ngày hay mười ngày. Chương tŕnh một ngày như sau:

6 giờ sáng:    Công phu sáng

7.30:             Điểm tâm

8.30 - 11.30: Tinh tọa, kinh hành, lạy Phật

12.00:           Thọ trai

 

 

1 giờ chiều:    Chỉ tịnh

2.00 - 5.00:   Tinh tọa, kinh hành, lạy Phật

6.00:             Dược thực

7.00 – 8.30:  Tụng Kinh, lạy Phật, kinh hành

9.00:             Chỉ tịnh

 

Tinh tọa: ngồi ngay thẳng niệm Phật theo hơi thở: hít vào niệm A Di Đà Phật; thở ra niệm A Di Đà Phật.  

 

Kinh hành: đi chậm răi theo tiếng niệm Phật (có thể dùng máy niệm Phật).  Có thể đi hai buớc hay bốn bước trong mỗi câu niệm Phật.  Cách đi hai bước: chân trái bước (NAM MÔ A), chân phải bước (DI ĐÀ PHẬT).  Cách đi bốn bước: chân trái bước (NAM MÔ), chân phải (A DI), chân trái (ĐÀ), chân phải (PHẬT).  

 

Lạy Phật: lạy 12 danh hiệu của Phật A Di Đà (3 lần): “Nam Mô An Dưỡng Quốc Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội   Vô Lượng Quang Như Lai…” hay lạy 48 lời nguyện của Phật A Di Đà.

 

Buổi trưa thọ trai nên theo nghi thức quá đường như ở chùa trước 12 giờ trưa.

 

7. CÚNG THÍ THỰC

    Cúng thí thực cô hồn là phương pháp thực hành ḷng từ bi đối với những cô hồn lang thang không người thương tưởng.  Phật tử tại gia thỉnh thoảng cũng nên cúng thí thực.  Trên bàn cúng thí thực ngoài hoa quả, nên có cháo hoa thật lỏng, bánh, khoai, đậu, bắp rang, khoai ḿ, gạo muối v.v…  Những lễ vật này có thể bày ngoài trời hay trong nhà sau cửa chính ra vào. Từ 2 giờ chiều trở đi có thể cúng được.

 

 

8. NHỮNG NGÀY ĂN CHAY

    Dưới đây là những ngày ăn chay hàng tháng tính theo âm lịch. Các Phật tử có thể phát nguyện ăn chay nhiều ngày hay ít ngày tùy theo hoàn cảnh của ḿnh.

Mười ngày: Ngày 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30. Tháng thiếu tính ngày 27.

Sáu ngày: Ngày 8, 14, 15, 23, 29, 30. Tháng thiếu tính ngày 28.

Bốn ngày: Ngày 1, 14, 15, 30. Tháng thiếu tính ngày 29.

Hai ngày: Ngày 1, 15.

Ba tháng ăn chay: có những Phật tử phát nguyện ăn chay ba tháng trong năm. Đó là tháng giêng, tháng bảy và tháng mười.

 

9. CÁC NGÀY LỄ PHẬT VÀ BỒ TÁT TRONG NĂM

(Tính theo âm lịch)

Tháng Giêng:

    Ngày   1: Đức Phật Di Lặc Đản Sanh.

Tháng Hai:

    Ngày   8: Đức Phật Thích Ca xuất gia.

    Ngày 15: Đức Phật Thích Ca nhập diệt.

    Ngày 19: Đức Quán Thế Âm xuất gia.

    Ngày 21: Đức Phổ Hiền Bồ Tát.

Tháng Ba:

    Ngày 16: Đức Chuẩn Đề Bồ Tát.

 Tháng Tư:

    Ngày   4: Đức Văn Thù Bồ Tát.

    Ngày 15: Đức Phật Thích Ca đản sanh.

Tháng Sáu:

    Ngày 19: Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đản sanh.

Tháng Bảy:

    Ngày 13: Đức Đại Thế Chí Bồ Tát.

 

 

    Ngày 15: Lễ Vu Lan.

    Ngày 30: Đức Địa Tạng Bồ Tát.

Tháng Chín:

    Ngày 19: Đức Quán Thế Âm thành đạo.

    Ngày 30: Đức Phật Dược Sư.

Tháng Mười Một:

    Ngày 17: Đức Phật A Di Đà.

Tháng Chạp:

    Ngày   8: Đức Phật Thích Ca thành đạo.

 

 10. VẤN ĐỀ TANG LỄ

    Điều quan trọng của tang lễ là sự thành tâm của con cháu.  Tránh sự xa hoa lăng phí.

   

    Lúc c̣n sống: Khi thân nhân c̣n tỉnh táo, hăy thỉnh chư tăng ni về cầu an và khai thị.

    

    Lúc hấp hối: Khi người thân hấp hối, thỉnh chư tăng ni và bạn đạo về hộ niệm.  Hăy để thi hài người quá cố nằm yên.  Con cháu không nên sờ mó vào người mất hay than khóc kể lể; chỉ nên ngồi quanh để niệm Phật tiếp dẫn.  Hăy cố gắng niệm Phật liên tục trong tám giờ đồng hồ (tối thiểu cũng được bốn tiếng).  Sau khi hộ niệm xong mới thông báo cho nhà quàn.  Đây là giây phút quan trọng để con cháu có đủ th́ giờ chia tay với người quá cố v́ sau này sẽ không c̣n cơ hội để gặp nữa.  Đây cũng là lúc con cháu đem tâm thương yêu của ḿnh để hộ niệm.

 

    Tang lễ: Sau đó đến nhà quàn để lo phần tang lễ. Trong suốt thời gian tang lễ, gia đinh hăy chú tâm tụng niệm và dùng những thức ăn chay tinh khiết để cúng cho người quá cố, cũng như cho gia đinh dùng. Thi hài người quá cố nên thiêu và mang về chùa để

 

thờ một thời gian.  Sau đó đem rải trên biển để cho vong linh người quá cố được siêu thoát.

 

    Cúng thất: là giai đoạn cầu nguyện quan trọng. Cúng thất là cúng mỗi tuần trong ṿng 49 ngày kể từ ngày mất.  Bốn mươi chín ngày là giai đoạn để con cháu, thân nhân báo ân, báo hiếu.  Hăy phát tâm ăn chay trong suốt 49 ngày và quy y tam bảo để hồi hướng công đức về cho người quá cố.  Giai đoạn này cũng là giai đoạn để người sống có đủ th́ giờ chuyển hóa những niềm đau của ḿnh.  Tụng kinh không chỉ để cầu nguyện cho người mất, nhung cũng cầu nguyện cho người sống được b́nh an.  Thất thứ bảy là thất quan trọng.  Trong ngày này gia đinh cầu nguyện cho hương linh đuợc văng sanh hay chuyển sanh sang kiếp khác.  Trong dịp này gia đinh hăy phát tâm bố thí, cúng dường, làm phước để hồi hướng công đức cho hương linh.

 

    Vấn đề coi ngày trong Phật Giáo không quan trọng v́ đối với Phật ngày nào cũng tốt khi ḿnh có sự thành tâm.  Tuy nhiên nếu muốn giữ phong tục th́ vấn đề coi ngày cũng không sao.  Mọi phương tiện mang lại sự an tâm đều là phương tiện tốt.  Vấn đề tang chế cần đơn giản, mỗi người trong gia đinh chỉ cần mang một khăn trắng với y phục đen là đủ, không cần phải may tang phục.  Thời gian để tang của vợ để cho chồng và con để cho cha mẹ là 24 tháng, c̣n những người khác là 100 ngày. 

    Vấn đề tang lễ ngày xưa rất chi ly, phức tạp.  Ngày nay chúng ta cố gắng đơn giản hóa nhưng vẫn đủ lễ nghi.  Chuyện cốt yếu là sự thành tâm cầu nguyện, hương linh sẽ hưởng được lợi ích.  Cố tránh

 

tổ chức ruờm rà nhưng chỉ có h́nh thức.

 

*

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

PHÁP MÔN LẠY PHẬT

Thích Trí Hoằng

 

    Trong truyền thống tu tập Việt Nam, pháp môn Lạy Phật là một pháp môn rất phổ biến được thực tập trong hàng xuất gia cũng như tại gia.  Trong các chùa cứ vào những ngày mười bốn và ba mươi âm lịch đều có các buổi lạy Hồng Danh Sám Hối.  Bây giờ tại hải ngoại chúng ta cũng vẫn tiếp tục tu tập theo truyền thống đó.  Như thế đủ chứng minh tính mầu nhiệm của pháp môn này.  Tuy nhiên, lâu nay chúng ta thực tập thấy có an lạc và lợi ích thiết thực cho thân và tâm, nhưng không hiểu rơ nguyên nhân tại sao.  Trong bài này chúng ta sẽ cố gắng t́m hiểu những lư do nào khiến pháp môn này mang đến cho chúng ta những lợi lạc mầu nhiệm đó.

 

    Sau thời gian dài sống tại Bắc Âu cũng như Đông Bắc Hoa Kỳ là những vùng rất lạnh của thế giới, chúng tôi nghiệm ra tại đây có rất nhiều người mắc phải những chứng bệnh thuộc về phong thấp như đau nhức khớp xương.  Nhất là những người lớn tuổi đến từ các nước thuộc khu vực nhiệt đới.  Bác sĩ khuyên mọi người nên tập thể dục.  Ai cũng thấy lời khuyên đó đúng.  V́ sang đây chúng ta ít khi có cơ hội để vận động thân thể cho máu huyết lưu thông.  Chúng ta ngồi quá nhiều, vừa buớc ra khỏi nhà đă leo lên xe, đến sở làm phải ngồi suốt buổi.  Ngày này sang ngày nọ cứ như thế.  Thêm vào đó, qua sự ăn uống cơ thể chúng ta tiêu thụ quá nhiều độc tố.  Từ đó đủ các chứng bệnh về tim cũng như ung thư phát sinh.  Tuy thế việc tập thể dục vẫn là vấn đề nan giải.  Với những người trẻ tuổi ít gặp khó khăn hơn.

 

C̣n đối với những người lớn tuổi, đây quả thật là một khó khăn lớn.  V́ văn hoá khác biệt, các cụ ta thấy ngại ngùng trong việc đi bơi đi lội, đi đến nhà tập thể dục để luyện tập thân thể.  Đó là chưa kể vấn đề di chuyển cũng như ngôn ngữ, v́ phần lớn các cụ không biết lái xe và tiếng tăm không thông.  C̣n việc đi bộ cũng không dễ dàng thực hiện được, v́ vào mùa ấm c̣n đi lại chút đỉnh, chứ những ngày lạnh chẳng dám hé cửa, đừng nói chuyện ra ngoài đường.  Nếu đi không khéo, trợt tuyết té th́ khổ thân.  Nói tóm lại là đành chịu chết.  Các vị than phiền và không biết phải giải quyết vấn đề như thế nào.  Chúng tôi chỉ khuyên các cụ hăy cố gắng thực tập pháp môn lạy Phật mỗi ngày, sáng cũng như tối.

 

    Vài tuần lễ sau đó có người đến chùa cám ơn, nhờ thực tập pháp môn lạy Phật đă khỏi bệnh.  Có vị cho chúng tôi hay sau mấy tuần lạy Phật, bây giờ đă hết luôn chứng đau lưng.  Chứng bệnh mà vị đó đă bị từ nhiều năm nay, uống thuốc ǵ cũng không khỏi.  Các vị khác cho hay bây giờ ngủ ngon giấc không mộng mị, các chứng tê nhức cũng đă hết.  C̣n những người trung niên cũng cho biết họ đă bán các dụng cụ tập thể dục, v́ cứ mỗi sáng sau khi lạy hai mươi phút mồ hôi toát ra như tắm, như thế th́ hơn thể dục nhiều.

 

    Trong các Truyền Thống Phật Giáo, Pháp môn lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng phương pháp này cũng đuợc các truyền thống khác tu tập.  Với Phật Giáo Tây Tạng vấn đề lạy Phật là một phương pháp tu căn bản. Trong truyền thống này, khi bắt đầu

 

những kỳ nhập thất dài hạn, thông thường kéo dài ba năm ba tháng ba ngày, các vị lạt-ma lạy một trăm ngàn lạy.  Mỗi ngày từ sáng đến tối chỉ thực hành lạy Phật.  Trung b́nh mỗi ngày lạy được một ngàn lạy, và cứ lạy liên tục như thế trong ba tháng mười ngày th́ đủ một trăm ngàn.

 

    Có người thắc mắc không hiểu lạy như thế có lợi ích ǵ?  Vấn đề này chúng ta sẽ t́m hiểu cặn kẽ trong phần sau.  Đại khái chúng ta có thể hiểu đây là giai đoạn chuẩn bị cho thời gian “hạ thủ công phu” để nỗ lực tinh tấn trên con đường khai triển tuệ giác.  Sự chuẩn bị này được chú trọng trên cả hai phương diện thân và tâm.

 

    Sau giai đoạn lễ lạy đó, tâm hồn hành giả thơ thới, thân thể tráng kiện.  Khi đó vị hành giả cảm thấy như ḿnh đuợc tái sinh từ thể xác đến tinh thần.  Cần hội đủ những điều kiện cần thiết đó th́ công cuộc khổ tu của những tháng năm đến mới thành tựu viên măn.  Chúng ta cũng nên biết rằng, Tây Tạng là một nước ở trên núi Hy Mă Lạp Son, một dăy núi cao nhất thế giới, tuyết phủ quanh năm. Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt như thế, nếu không có một thân thể cường tráng một ư chí mănh liệt th́ khó có thể tiếp tục công việc tiến tu.

 

    Do đó sự hành tŕ lễ lạy là một phương pháp tốt để  đạt những mục tiêu ban đầu.  Ngoài ra các Phật tử Tây Tạng cũng thực hành phương pháp "nhất bộ nhất bái" (nghia là: đi một bước lạy một lạy) trong các cuộc hành hương chiêm bái các thánh tích như: Cung Potala nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma ngự, các tu viện nổi

 

tiếng nơi có bảo tháp các vị tổ sư...

 

    Quang cảnh rất cảm động chung quanh Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Đức Phật Thành đạo, là hàng trăm vị Lạt ma cùng các Phật tử Âu Mỹ thực hành pháp môn lễ lạy.  Họ cứ lạy từ sáng đến chiều và từ ngày này sang ngày nọ.  Cách lạy của người Tây Tạng cũng khác hơn chúng ta là họ lạy nằm dài hết cả người xuống đất.  Tấm ván dùng để lạy trở nên bóng loáng và chỗ hai bàn tay chống xuống để đẩy dài người ra bị lơm sâu xuống.  Điều đó chứng tỏ họ đă lạy không biết bao nhiêu ngàn vạn lạy rồi. 

 

    Qua những khảo sát đó, chúng ta hiểu được: Tại sao dân Tây Tạng có thể sống khoẻ mạnh trên đỉnh núi tuyết, nơi lạnh lẽo và thiếu dưỡng khí?  Làm thế nào để có được tín tâm vững chải nơi Tam Bảo?  Làm sao để thành đạt kết quả tu tập?  Những thành tựu đó có thể nói phần lớn nhờ bởi công phu lễ bái.  Chính việc Lạy Phật đă giúp cho dân Tây Tạng sống khoẻ mạnh từ thể chất đến tinh thần, có tín tâm kiên cố nơi Tam Bảo, và thành tựu sự nghiệp tu chứng. Ngày nay dân tộc nhỏ bé yếu kém đó đă mang Phật Pháp truyền bá khắp nơi.

 

    Tại Trung Quốc, các Tông Phái Phật Giáo từ Tịnh  Độ, Thiền, Thiên Thai, đến Luật Tông, Mật Tông v.v.. đều chú trọng vào việc Lạy Phật như một hành tŕ căn bản.  Trung Quốc có những cuốn kinh dành riêng cho việc lễ lạy như:

    - Kinh Hồng Danh: 108 lạy, kinh sám hối căn bản.

    - Kinh Ngũ Bách Danh: 500 lạy, gồm tên của 500 vị Phật hay 500 danh hiệu của một vị Phật hay Bồ

 

Tát.

    - Kinh Thiên Phật: 1.000 lạy, danh hiệu của một ngàn vị Phật.

    - Kinh Ngũ Thiên Phật: 5.000 lạy, danh hiệu của năm ngàn vị Phật.

    - Kinh Vạn Phật: 10.000 lạy, danh hiệu của mười ngàn vị Phật.

    - Thủy Sám: sách sám hối, vừa tụng vừa lạy, do ngài Ngộ Đạt soạn.

    - Lương Hoàng Sám: bộ sách sám hối, do hoà thượng Chí Công đời vua Lương Vơ Đế soạn để sám hối cho hoàng hậu Hy Thị.

Qua các kinh đó chúng ta thấy Phật Giáo Trung Quốc đă hành tŕ pháp môn lạy Phật nghiêm túc như thế nào.  Ngày xưa các chùa đều được xây dựng nơi núi cao rừng sâu, tránh cảnh thị thành náo nhiệt để các hành giả chuyên chú quán chiếu nội tâm.  Các ngôi chùa như Thiếu Lâm Tự đuợc xây dựng trên núi Thiếu Thất.  Để có đủ sức khoẻ chống lại sơn lam chướng khí thú dữ, các thiền sinh phải luyện tập vơ thuật và khí công kèm với sự tu tập phát huy tuệ giác.  Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma là người đă khai sáng Thiền Tông tại Trung Quốc, cũng là tổ sư sáng lập vơ thuật tại đây.  Các tổ sư đă ư thức rơ ràng sự quan hệ giữa thân và tâm. Sự thành tựu tuệ giác phải song hành với sự tráng kiện của thân thể.  Khí công và nội lực là những yếu tố quan trọng trong việc phát triển tâm linh.  Không thể nào có được ư chí dung mănh trong một thân thể bệnh hoạn.  Từ đó các tổ đă kết hợp hai truyền thống tu luyện của Ấn Độ và Trung Quốc, truyền thống yoga cũng như các phương pháp luyện công luyện khí của vơ thuật được kết hợp nhuần nhuyễn để chế tác pháp môn Lạy Phật.  Như thế

 

chúng ta thấy Lạy Phật là kết quả tiêu biểu cho những kinh nghiệm tu tập thoát thai từ sự dung hợp sâu sắc tinh hoa của các nền đạo học đông phương.

 

    Một vị thánh tăng trong thời đại chúng ta là ngài Hư Vân (1840 -1959), ngài đă hành tŕ "tam bộ nhất bái" (ba buớc một lạy) từ Phổ Đà Sơn về Ngũ Đai Sơn, khoảng đường dài bằng từ New York về Seattle.  Trong cuốn Tự Truyện ngài đă kể lại những kinh nghiệm tu chứng của ngài trong thời gian lễ bái đó.  Ngài có được những khả năng phi thường như nh́n xuyên qua vách, nghe được tiếng từ xa, biết việc vị lai ...  Lúc bị chính quyền Trung cộng tra khảo dă man, người cai ngục tưởng ngài chết rồi.  Nhưng sáng hôm sau thấy ngài ngồi dậy như trước đó chẳng có chuyện ǵ xảy ra.  Ngài thọ 120 tuổi.

 

    Ngày nay tại Tổ Đinh Vân Môn tại Quảng Đông Trung Quốc, mỗi sáng chư tăng sau thời công phu bắt đầu lạy ba trăm lạy.

 

    Phật Giáo Việt Nam cũng như Nhật Bản và Đại Hàn chịu ảnh hưởng sâu đậm Phật Giáo Trung Quốc.  Do đó trong phương pháp hành tŕ rất chú trọng về lễ lạy.  Phật tử Việt Nam đến ngày nay vẫn duy tŕ mạnh mẽ phương pháp tu tập đó.  Vào những ngày mười bốn và ba mươi âm lịch, chúng ta có những thời Hồng Danh Sám Hối.  Chúng ta cũng lạy Ngũ Bách Danh, Thiên Phật, Vạn Phật...  Ngoài ra, có người cũng phát nguyện lạy từng chữ trong các bộ kinh lớn như Pháp Hoa, Bát Nhă, Niết Bàn, Hoa Nghiêm...

 

    Trước năm 1975, lúc chúng tôi tu tập tại Chùa Già

 

Lam, Gia Định, mỗi sáng sau thời công phu, ḥa thượng Trí Thủ xướng hồng danh chư Phật chư Tổ để mọi người lễ lạy.  Giọng Ôn sang sảng vang dội khắp chùa.  Thỉnh thoảng Ôn nhập thất.  Trong suốt thời gian đó Ôn tŕ niệm và lễ bái hồng danh đức Phật A Di Đà.  Những năm cuối đời Ôn vẫn kiên tŕ tu tập pháp môn đó.  Qua cuộn băng cassette thu tại Chùa Già Lam vào khoảng năm 1982, chúng tôi vẫn c̣n nghe giọng xướng trầm hùng của Ôn và Đại Chúng.  Tại Hoa Kỳ, chúng tôi được biết Tu Viện Kim Sơn tại Bắc Cali thực hành chuyên cần công phu bái sám.  Đại Chúng lạy mỗi ngày hai thời và mỗi thời khoảng hai trăm lạy.  Cũng như rất nhiều các Chùa Việt Nam khác tu tập pháp môn lễ bái này.

 

    Tác phẩm nổi tiếng về sự hành tŕ pháp môn lạy Phật này là cuốn Khóa Hư Lục của vua Trần Thái Tôn soạn.  Nhà vua soạn bộ sách sám hối này cũng trong tâm trạng thành khẩn như ngài Ngộ Đạt sám hối nghiệp chướng nhiều đời, như vua Lương Vơ Đế sám hối quả báo của hoàng hậu.  Như chúng ta biết vua Trần Thái Tông là vị vua đầu tiên của triều Trần.  Dưới áp lực của thái sư Trần Thủ Độ, cũng là chú của vua, bắt vua phải làm những việc loạn luân, thất nhân tâm như ruồng bỏ vợ, lấy chị dâu đang mang thai, cùng chứng kiến những cảnh tàn sát tôn thất nhà Lư.  Không chịu nỗi những cảnh tàn ác đó, nhà vua bỏ kinh thành vào núi để xin xuất gia.  Phù Vân quốc sư đă khuyên nhà vua hăy trở về gánh lấy trọng trách để t́m cách chuyển đổi chính sách bạo tàn thành chính sách khoan ḥa nhân đạo, cũng như theo đuổi con đường tu tại gia.  Nhà vua đă trở về. Sách Khóa Hư Lục đă được soạn ra trong hoàn cảnh

 

đó.  Trong đó nhà vua đă soạn những bài văn thống thiết để ngày đem sáu thời lễ bái sám hối cho nghiệp chướng tiêu trừ, cho quốc thái dân an.  Với ảnh hưởng đạo đức của vua Thái Tông, triều Trần đă trở thành một triều đại quân chủ Phật Giáo hùng mạnh trong lịch sử với những chiến thắng Mông Cổ oanh liệt.  Mông Cổ là đoàn quân bách chiến bách thắng, xây dựng một đế quốc trải dài từ Âu sang Á, chưa bao giờ bị thua trận.

 

SỰ LỢI ÍCH -

    Phương pháp Lạy Phật là kết tinh của những kinh nghiệm tu tập sâu sắc từ những truyền thống đạo học đông phương.  Do đó những lợi ích mang lại từ sự hành tŕ pháp môn này vô cùng lớn lao.  Sự lợi ích đó đạt được cả trên hai phương diện thân xác cũng như tinh thần.

 

    Về Thân: Phương pháp Lạy Phật mang lại những hiệu quả sau:

 

1. Truớc hết, động tác lạy Phật là một phương pháp thể dục tốt.  Với những cử động nhẹ nhàng, nhưng tất cả các bắp thịt trên toàn thân đều được vận động tối đa. Khác với lúc tập thể dục, v́ thông thường khi thể dục chúng ta không vận động tất cả các bắp thịt đồng đều cùng một lúc.  Ví dụ: khi đi bộ, chúng ta vận động nhiều bắp thịt ở chân.  Chỉ có bơi lội chúng ta mới cử động toàn thân.  Trong lúc lạy Phật, tất cả các bắp thịt trên cơ thể đều hoạt động làm khí huyết toàn thân lưu chuyển giúp chúng ta chữa trị các chứng thấp khớp, cũng như pḥng ngừa các chứng bệnh hiểm nghèo khác.

 

 

2. Các huyệt đạo quan trọng trên cơ thể được tác động. Từ huyệt bách hội trên đỉnh đầu xuống đến huyệt đan điền dọc theo xương sống và các huyệt ở tay chân.  Chúng ta cảm thấy có một luồng khí nóng chạy đều khắp cơ thể và mồ hôi theo các lỗ chân lông tuôn ra.  Theo y học đông phương, một khi các huyệt đạo trên cơ thể được tác động, khí huyết sẽ lưu chuyển và bệnh tật sẽ tiêu trừ.

 

3. Sau khi Lạy Phật xong, hăy ngồi xuống chừng mười lăm phút, chúng ta sẽ có cảm giác an lạc thư thái ngay v́ các huyệt đạo được tác động. Sự an lạc này rất sâu sắc, một kinh nghiệm rất đặc biệt mà chúng ta chỉ đạt được trong lúc thiền định.  Sự an lạc này mang lại cho chúng ta niềm hoan lạc suốt ngày.  Từ đó những phiền năo, những ưu tu, những đau buồn... cũng nhanh chóng tan biến.

 

4. Các trọng huyệt này tương ứng với các luân xa trong truyền thống yoga Ấn Độ.  Các luân xa này nằm dọc theo xương sống từ đỉnh đầu xuống đến bàn tọa gồm bảy luân xa.  Một khi được tác động, các luân xa này giúp chúng ta khai triển được những năng lực mầu nhiệm tiềm tàng trong mỗi người, tạo điều kiện thuận tiện cho việc phát triển tâm linh.

 

    Về Tâm: phương pháp Lạy Phật là phương pháp điều tâm để thanh tịnh ba nghiệp: thân, khẩu và ư (tư tuởng, ngôn ngữ và hành động).  Phương pháp này giúp ta:

 

1. Tiêu trừ nghiệp chướng: Trong sự sám hối, thành tâm đảnh lễ mười phương chư Phật bằng cả thân tâm

 

của ḿnh.  Quán chiếu sâu xa nguồn gốc tội lỗi, cùng bản tánh của tội lỗi.  Quán tưởng hào quang chư Phật mười phương hiển hiện trước mắt, cũng như Phật tánh trong tự tâm tỏa rạng.  Nhờ Phật lực hộ tŕ cùng nỗ lực tự tâm để thanh tịnh ba nghiệp.  Với sự sám hối đó các ác nghiệp và chướng duyên đều được chuyển hóa.

 

2. Thiện căn tăng trưởng: trong khi lễ lạy, hồi hướng cho kẻ thân người thù đều được lợi lạc, đều được thành tựu sự nghiệp giác ngộ giải thoát.  Như thế Bồ Đề Tâm (thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh) được nuôi dưỡng, ḷng từ bi được phát triển.  Sự lễ bái hàng ngày đem lại cho chúng ta nguồn an lạc vô biên. Sự an lạc này giúp cho phiền năo tiêu tan, sự trầm tĩnh trở lại trong tâm hồn và ḷng thương cũng phát sinh đối với người ghét.

 

3. Đức khiêm cung phát sinh: trong khi hạ ḿnh xuống sát đất để lạy Phật, để thấy những thành đạt của ḿnh chỉ là những giọt nước trong đại dương bao la.  Bác Hoà phát biểu trong buổi thảo luận Phật Pháp, để chuyển hóa tâm kiêu mạn của ḿnh, mỗi ngày bác lạy Phật để hồi hướng công đức về thiên, về địa, về sư truởng, về ông bà cha mẹ... để cảm nhận trùng trùng ân nghĩa.  Để thấy sự thành tựu của ḿnh hôm nay là công ơn tác thành của nhiều người.  Để từ đó tâm khiêm nhường phát sinh.  Trong Kinh Đức Phật thường dạy, tâm khiêm nhường là cửa ngơ của trí tuệ và là con đường đưa đến giải thoát.

 

SỰ HÀNH TR̀ –

    Trong truyền thống Việt Nam, chúng ta có lạy

 

Hồng Danh, Ngũ Bách Danh, Thiên Phật, Vạn Phật ...  Tùy theo hoàn cảnh và khả năng để áp dụng cách lễ lạy cho thích hợp.  Điều quan trọng là sự hành tŕ đều đặn.  Nếu chưa quen chúng ta có thể bắt đầu bằng ba mươi lạy, rồi sau đó tăng dần cho đến một trăm lẻ tám lạy (để trừ một trăm lẻ tám phiền năo).  Nếu có băng Hồng Danh th́ mở băng và theo lời xướng danh hiệu Phật trong băng để lạy.  Chúng ta có thể lạy mỗi ngày một hay hai lần.

 

    Cách đơn giản nhất, chúng ta lạy theo hơi thở. Cứ hít vào chúng ta đứng lên và thở ra chúng ta lạy xuống.  Cứ lạy chậm răi. Mỗi lạy chúng ta niệm một

danh hiệu Phật và đếm một, cứ như thế cho đến đủ số.  Hoặc chúng ta có thể theo dơi đồng hồ và lạy đủ thời gian ấn định th́ ngưng.  Hoặc mười lăm phút, hai mươi phút hay nửa giờ.  Đó là những phương cách đề nghị để chúng ta tùy nghi thực hành.

 

    Sự lễ lạy có thể thực hiện bất kỳ chỗ nào.  Miễn là chúng ta có được khoảng không gian bằng chừng chiếc chiếu là đủ để lạy rồi.  Tốt nhất là trước bàn Phật, nếu không th́ ở chỗ nào cũng được, miễn tâm thành là được.  Ngay cả trong pḥng ngủ, mỗi sáng lúc thức dậy hay mỗi tối khi đi ngủ chúng ta có thể thực tập.

 

    Khi lạy hai tay chắp ngang trán, đưa xuống ngực rồi lạy xuống sát đất.  Điều này biểu tượng cho "thân tâm cung kính lễ" (đem thân đoan nghiêm và tâm thành kính để lễ lạy).  Lúc lạy xuống hai tay, hai chân và trán phải chấm đất (ngũ thể đầu địa: năm phần của thân thể đều chạm đất). Chúng ta nên đúng thẳng người rồi lạy xuống, sau đó đứng thẳng

 

lên.  Như thế các bắp thịt khắp châu thân được vận động tốt hơn (trừ khi yếu chân, có thể quỳ lạy).

 

    Trong khi lạy cố gắng kết hợp cả ba phương diện:

    - thân đứng nghiêm chỉnh cử động nhịp nhàng hoà hợp, hơi thở đều đặn;

    - miệng niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát;

    - tâm quán tưởng đến Phật, Bồ Tát hay cảnh giới của chư Phật và Bồ Tát. Ví dụ: có thể quán tưởng đến Đức Phật A Di Đà đang ở trước mắt, hay cảnh Tịnh Độ chung quanh ta.

 

KẾT LUẬN -

    Tóm lại, phương pháp lạy Phật là một phương pháp rất đơn giản, nhưng mang lại những lợi ích rất lớn.  Ai tập cũng được, bất kỳ nơi đâu và không cần phải sắm dụng cụ ǵ cả.  Đây là kết tinh của những kinh nghiệm tu luyện quư báu của chư tổ, đă kết hợp các phương pháp tu tập của Thiền gia và vũ thuật gia để chế tác thành.  Sự thực hành pháp môn này mang lại lợi ích rơ rệt cho cả thân lẫn tâm.  Thân thể cường tráng chữa trị và pḥng ngừa các chứng bệnh hiểm nghèo như bệnh tim, áp huyết cao, ung thư..  Tinh thần an lạc thư thái.  Sống an vui hạnh phúc trong hiện tại.  Tạo điều kiện thuận tiện khai triển khả năng tâm linh vô biên để tiến tới giải thoát hoàn toàn.  Đây là một pháp môn mầu nhiệm, những niềm hoan lạc sâu sắc chúng ta kinh nghiệm được trong lúc hành tŕ là những bước tiến vững chắc trên bước đường tu tập.  Qua những thành tựu đó giúp chúng ta tăng trưởng tín tâm đối với những pháp môn chư tổ truyền lại.

*
 


PHƯƠNG DANH CÁC PHẬT TỬ

 PHÁT TÂM ẤN TỐNG

 


*Quảng Cư  *Phước Ngọc  *Trần Út  *Thiện Huyền & Diệu Lư  *Trương Hải & Lư Phương  *Gđ Lê Tạ  *Gđ Lâm Quang Thắng  *Trần Thị Ghết  *Tiêu Huỳnh Tiên  *Gđ Lưu Phước  *Gđ Lư Văn Ánh  *Gđ Vơ Ngọc Thành  *Gđ Lê Văn Đẩu  *Diệu Đức  *Gđ Diệu Lan  *Diệu Thường  *Tâm An & Phước Lộc  *Từ Thiện  *Trần Nguyệt Nga P.D. Diệu Hạnh  *Thái Nghiệp Khâm P.D. Minh Tuấn  *Phạm Hương P.D. Nguyên Liên  *Phạm Ngọc Tiên P.D. Nguyên Trang  *Minh Kiều Mowry  *Hoằng Phương & Từ Phước  *Hoằng Nhiên  *Gđ Minh Thăng  *Dương Cẩm Phúc  *Gđ Mai Lệ Giang  *Gđ Hà Văn Đáng  *Gđ Diệu Ánh  *Nguyễn Thanh 

*Trương Ngọc Hoa & Hồ Phước  *Gđ Trương  văn Ta  *Lư Năng Nhườmg,Trương Ngọc Di, Lư Huy, Kay Pendleton, Sean Pendleton  *Trần Châu & Trương Ngọc Liên  *Gđ Tôn Minh Chi  *Gđ Nguyễn Kim Khánh  *Lư Yến  *Tôn B́nh  *  Gđ Nguyên Hà  *Gđ Diệu Bằng  *Quan Linh  *Gđ Phạm Thị Yến  *Gđ Diệu Đăng  *Gđ Hồ Hai  *Phùng Hón  *Tằng Phùng Quay  *Gđ Hồ Bá Nhẫn  *Quăng An  *Trần Thị Năm P.D. Diệu Tuyết  *Gđ Tôn Nữ Minh Triều  *Gđ Lưu Hùng  *Phạm Justin P.D. Hoằng Nhơn  *Phạm Ryan P.D. Hoằng Hải  *Tịnh Nguyệt Vân  *Nguyên Bảo & Thiện Đạo  *Lâm Thị Nghĩa  *Lâm Lư Thanh P.D. Nguyên Thảo  *Lâm Hồng Thanh P.D. Diệu Xuân  *Diệu Thảo, Minh Phước, Minh Nhật  *Vơ Thị Cúc P. D. Huệ Lâm  *La Hà P.D. Diệu Nhẫn  *Châu Khánh Vân P.D. Hiền Ngọc  *Châu Khánh Nga  *Gđ Vũ Đức Tùng  *Gđ Diệp Muối Lớn P.D. Ngọc Hạnh  *Gđ Diệu Liên, Diệu Hằng  *Gđ Diệu Huệ  *Diệu Duyên  *Đỗ Nguyên & Nguyễn Liên  *Gđ Đặng Khương , Đặng Tú Khanh, Đặng Tú Khang hồi hướng công đức cho hương linh Đặng tú Khuê  & Đặng Tú Khuyên  *Lương Thị Tâm  *Lê Lập  *Trương Văn Trí, Trương Tố Ly, Trương Hồng Donald  *Trương Văn Tỵ, Hà Lan Anh  *Bùi Thanh Khai, Bùi Thanh Khiêm, Bùi Thanh Thảo, Trần Mỹ Thu  *Vương Mai, Hồng Hiền,Trần Phương Anh, Audrey Gia Nghi Hồng  *Huỳnh Thị Thang, Phan Thị Huệ, Trần Tri Nguyên  *Trần Quốc Danh  *Lê Diễm Châu  *Trần Lê Penzi  *Nguyễn Quốc  *Như Quỳnh  *Minh Nhật & Diệu Thọ  *Mai & Linh Chi  *Lê Dũng & Trúc Uyển  *Chung Hoàng , Diệu Thư  *Gđ Minh Viễn  *Gđ Đinh Thị Anh Đào  *Gđ Nguyễn Anh  *Gđ Bảo Ngọc & Gđ Diệu Chánh  *Hoàng Ngọc P.D Nguyên Hồng  *Nguyễn Thị Lam Tuyền  *Phạm Thành Ngôn & Thanh Trúc  *Ryan & Thuỳ Mc Kitrick  *Hà & Thy Nguyễn  *Trấp & Hương Nguyễn  *Phan Anh Dũng  *Gđ Phùng Quách & Diệu Trí  *Gđ Tâm Hỷ  *Gđ Nguyễn Linda  *Gđ Nguyễn Ánh Minh Châu  *Gđ Diệu Hà  *Xuân Mai  *Gđ Diệu Thiện  *Gđ Thiện Kiến & Nguyên Thành  *Gđ Nguyễn Thị Lượm  *Gđ Tim & Hằng Heaviland  *Gđ Nguyễn San  *Chị Nhung  *Diệu Phượng  *Gđ Lan Neal  *Trương Thị Quư  *Nguyễn Thị Tuyền Ly  *Mai thị Kim Thanh  *Nguyễn Thị Ly Luyến  *Minh Hậu  *Huỳnh Ngọc Chánh  *Nguyễn Bích Hạnh  *Gđ Đặng Xám Nữ P.D. Chơn Tịnh  *Phạm Thị Mỹ Quư  *Đỗ Thị Dương P.D. Đỗ Dương  *Phạm Thị Kim Thanh  *Phạm Mỹ Thuyên  *Gđ Mạnh Hồ  *David Nguyễn  *Quy Nguyễn  *Crystal Quan Minh Tôn  *Kim N Ta  *Nancy Triều Tôn  *Jade M Nguyễn  *Ro & Hồng Nhung Nguyễn  *Xuân Trần  *Aichi Lomeli  *Gđ Vơ Đ́nh Dục  *Gđ Lê Văn Lành  *Gđ Lư Thị Mỹ Trang  *Tịnh Ngọc

*